Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
6 đặc trưng khác biệt chủ yếu của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự nói chung
(Ngày đăng: 2019-08-22)

 

Nhận thức chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

 

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có xuất phát điểm từ nguyên tắc hiến định nói rằng quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự được tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc hiến định này một lần nữa được tái khẳng định tại điều 2 Bộ luật dân sự năm 2015 nói rằng các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật mà chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh,… [1].

 

Quyền dân sự có thể được xác lập bởi nhiều căn cứ khác nhau, trong đó bao gồm xác lập dựa trên kết quả lao động, sản xuất, kinh doanh, kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, hoặc xác lập dựa trên sự việc bị thiệt hại bởi hành vi trái pháp luật gây ra bởi người khác[2]. Như vậy bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế tài pháp lý bảo vệ quyền dân sự bị xâm phạm, đặc trưng ở chỗ bên đòi bồi thường thiệt hại và bên bị yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại không hề bị ràng buộc bởi bất kỳ quan hệ hợp đồng nào.

 

Khi quyền dân sự bị xâm hại, cá nhân, pháp nhân có quyền sử dụng các phương thức bảo vệ quyền dân sự được pháp luật công nhận để đảm bảo các quyền dân sự đó được tôn trọng và bảo vệ. Một trong các phương thức bảo vệ quyền dân sự bị xâm phạm là buộc bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại trừ khi các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xem là xác lập khi chủ thể khác thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản quyền và lợi ích hợp pháp khác của chủ thể có quyền dân sự và gây ra thiệt hại về vật chất và/hoặc thiệt hại về tinh thần.

 

Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bên đòi bồi thường phải chứng minh được cả 4 yếu tố:

  1. Phải có thiệt hại xảy ra (có thể là thiệt hại vật chất hoặc/và thiệt hại tinh thần)
  2. Phải có hành vi trái pháp luật
  3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
  4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.

 

Sáu đặc trưng pháp lý liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

 

Như ở trên đã nêu vì hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cũng làm phát sinh quyền dân sự nên chủ thể có quyền dân sự đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cũng phải được bảo vệ bằng công cụ pháp luật là thực thi quyền đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi quyền sở hữu trí tuệ đó bị xâm phạm.

 

Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của tài sản sở hữu trí tuệ, khác biệt với các loại tài sản hữu hình khác ở chỗ quyền sở hữu trí tuệ tồn tại dưới dạng quyền đối nhân (người ta cũng hay gọi là tài sản vô hình) chứ không phải là quyền đối vật[3], nghĩa là quyền chiếm hữu (một trong ba nội dung thuộc quyền sở hữu: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt) gần như không tồn tại gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, quyền tác giả, quyền liên quan,…) nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cần thiết phải được quy định riêng ở Luật sở hữu trí tuệ tại các điều từ 202 đến 205 để phù hợp với tính chất đặc thù đó.

 

Luật SHTT xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tương tự như quy tắc xác định thiệt hại của trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung được quy định trong Bộ luật dân sự 2015 được nêu ở phần trên, cụ thể gồm: (a) thiệt hại về vật chất (tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại), và (b) thiệt hại về tinh thần (tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn, tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng).

 

Để giúp Quý doanh nghiệp nhận biết nhanh những đặc trưng pháp lý của chế định đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chúng tôi tổng hợp dưới đây 6 khía cạnh pháp lý chủ yếu:

 

  1. Việc xâm phạm bất kỳ quyền sở hữu trí tuệ nào đang được Việt Nam bảo hộ đều có thể dẫn đến hình thành quyền đòi bồi thường thiệt hại. Như vậy, phạm vi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ xác lập căn cứ đòi bồi thường thiệt hại là rất rộng, bao gồm quyền độc quyền dựa trên cơ sở được cấp văn bằng bảo hộ như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, giống cây trồng, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, và quyền độc quyền dựa trên cơ sở không phải đăng ký như quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng, tên thương mại, bí mật kinh doanh (bí mật thương mại), chống cạnh tranh không lành mạnh, quyền tác giả, quyền liên quan (quyền kề cận).

 

  1. Yếu tố thiệt hại xảy ra như đã nêu trên gắn liền với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung nêu ở phần trên được làm rõ phải là tổn thất thực tế về vật chất hoặc tinh thần do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trực tiếp gây ra, theo đó tổn thất thực tế chỉ được chấp nhận nếu chứng minh được cả 3 căn cứ sau:

(a)        Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại;

(b)        Người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích (a) nêu trên

(c)        Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.

 

3. Nghĩa vụ chứng minh tổn thất thực tế và mức độ thiệt hại, tổn thất thực tế thuộc về bên yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó cần lưu ý mức độ thiệt hại phải được xác định phù hợp với yếu tố xâm phạm quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Chứng cứ về thiệt hại phải được cung cấp trong đó có thể bao gồm cả kết quả trưng cầu giám định và bản kê khai thiệt hại trong đó có làm rõ căn cứ xác định và tính toán thiệt hại. Nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi thuộc về bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại.

 

4. Về đòi bồi thường thiệt hại về vật chất, nguyên đơn có quyền chọn một trong ba phương pháp sau yêu cầu tòa án buộc bị đơn bồi thường bằng tiền:

(a)        Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất.

(b)        Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện.

(c)        Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá 500 triệu đồng.

 

5. Về đòi bồi thường tổn thất về tinh thần, nguyên đơn còn có thể yêu cầu tòa án buộc bị đơn phải bồi thường tổn thất về tinh thần nằm trong giới hạn từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng tùy theo mức độ thiệt hại tinh thần chứng minh được tòa chấp nhận           

 

6. Về việc đòi bồi hoàn chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án buộc bị đơn phải thanh toán phí thuê luật sư và các chi phí khác như giám định và các chi phí khác liên quan như tạm giữ, bảo quản, lưu kho, chi phí thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời, cải chinh thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, chi phí khắc phục và ngăn chặn hành vi xâm phạm.

 

Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross

 

Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu gồm cả nhãn hiệu 3 chiều và tên miền internet.



[1] Xem Điều 14 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và Điều 2 Bộ luật dân sự 2015

[2] Xem khoản 4 và 7 Điều 8 Bộ luật dân sự 2015

[3] Ts. Nguyễn Ngọc Điện trong bài viết “Cần xây dựng lại khái niệm “quyền tài sản” trong luật dân sự” cho rằng “các quyền được thực hiện trực tiếp trên một vật hữu hình mà không cần sự hỗ trợ của một người nào khác gọi là quyền đối vật, mà tiêu biểu nhất là quyền sở hữu. Các quyền được thực hiện chống lại một người gọi là quyền đối nhân; quyền chủ nợ là quyền đối nhân điển hình”. Xem thêm: https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/09/14/3793/

 

Bookmark and Share
Relatednews
Thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền tác giả ở Việt Nam, UK, Mỹ, EU và Trung Quốc
Cấp quyền nhân vật (merchandising rights) và các khía cạnh pháp lý cần lưu ý cho bên cấp quyền và bên nhận quyền
So sánh Đăng bạ chính (Principal Register) và Đăng bạ phụ (Supplemental Register) khi đăng ký nhãn hiệu ở USPTO
10 Key Changes in Enforcing Patent, Design, Trademark Rights via Administravive Measure under Revised Decree 99/2013/NĐ-CP
Qatar tham gia Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
Thương hiệu giả mạo “Phở Thìn 13 Lò Đúc” bị hủy bỏ hiệu lực ở Hàn Quốc
10 thay đổi lớn về thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính theo Nghị định 99/2013/NĐ-CP sửa đổi
Khi nào không thể hoặc không nên đăng ký thương hiệu ra nước ngoài theo Hệ thống Madrid?
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.