Bản chất pháp lý của quyền liên quan theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Email: vinh@bross.vn
Bản chất của quyền liên quan
Quyền liên quan đến quyền tác giả[1] hay còn gọi là quyền kề cận (gọi tắt là “quyền liên quan”) là quyền độc quyền ngăn chặn người khác làm bản sao hoặc phân phối trái phép cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Quyền liên quan còn bao gồm quyền ngăn chặn việc định hình cuộc biểu diễn trực tiếp trên bản ghi âm, ghi hình; ngăn chặn việc giải mã trái phép, cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa
Quyền liên quan được bảo hộ độc lập với quyền tác giả miễn là nó không gây phương hại đến quyền tác giả.
Chủ thể thụ hưởng quyền độc quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng là người biểu diễn (diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công), nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, và tổ chức phát sóng tương ứng.
Quyền nhân thân và quyền tài sản của quyền liên quan
Quyền nhân thân của quyền liên quan chỉ áp dụng đối với người biểu diễn. Không có quyền nhân thân đối với tổ chức phát sóng và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Quyền nhân thân của người biểu diễn gồm 2 loại quyền là quyền nêu tên, và quyền bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn.
Về quyền tài sản, người biểu diễn có 4 loại quyền độc quyền: (1) định hình cuộc biểu diễn trực tiếp trên bản ghi âm, ghi hình; (2) sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình; (3) phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng; và (4) phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có 2 loại quyền độc quyền: (1) sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình; (2) nhập khẩu, phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Tổ chức phát sóng có 4 quyền độc quyền: (1) phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình; (2) phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình; (3) định hình chương trình phát sóng của mình; (4) sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.
Điều kiện bảo hộ và thời hạn bảo hộ quyền liên quan
Quyền liên quan luôn gắn liền với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, bản ghi hình, chương trình phát sóng và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Khác với quyền tác giả đòi hỏi tuân thủ 2 tiêu chuẩn bảo hộ là điều kiện định hình và nguyên gốc, quyền liên quan chỉ đòi hỏi tiêu chuẩn định hình (không yêu cầu tiêu chuẩn tính nguyên gốc)
Về thời hạn bảo hộ, quyền của người biểu diễn được bảo hộ 50 tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ 50 tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc 50 kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố. quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ 50 tính từ năm tiếp theo năm chương trình phát sóng được thực hiện.
Bảo vệ, thực thi quyền liên quan
Trừ các trường hợp giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả nêu ở mục 5 dưới đây, các hành vi chiếm đoạt, mạo danh, công bố trái phép, xuyên tạc theo cách gây phương hại, sao chép, sản xuất, phân phối cuộc biểu diễn được định hình, bản ghi âm, bản ghi hình, chương trình phát sóng mà không có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan đều bị coi là xâm phạm quyền liên quan.[2]
Hành vi xâm phạm đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có thể bị xử lý bằng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt lên tới 500 triệu đồng, hoặc bằng biện pháp kiện dân sự kèm theo mức bồi thường thiệt hại không giới hạn mức trần tùy thuộc vào mức độ thiệt hại thực tế, hoặc thậm chí có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hình phạt tiền tới 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù lên tới 3 năm.[3]
Sử dụng hợp lý (fair use)
Một số trường hợp đặc biệt được xem là ngoại lệ hoặc giới hạn không xâm phạm quyền liên quan (một số người gọi là “sử dụng hợp lý”). “Sử dụng hợp lý” chính là quy tắc ở điều 32 & 33 Luật SHTT hiện hành dưới tên gọi khác là “các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả nhuận bút, thù lao” và “các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả nhuận bút, thù lao”. Tuy vậy, chỉ được xem là sử dụng hợp lý nếu tuân thủ phép thử ba bước[4], ví dụ: hành vi sao chép, tự sao chép, trích dẫn hợp lý, làm bản sao tạm thời đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã công bố sẽ không bị xem là xâm phạm quyền liên quan ngay cả khi không xin phép, không trả tiền bản quyền cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng nếu các hành vi kể trên không gây xung đột với việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, và cũng không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.
Bross & Partners, một công ty sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất (Tier 1) năm 2021 bởi Tạp chí Legal 500 Asia Pacific, có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ bao gồm nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, giống cây trồng ở Việt Nam và nước ngoài.
Vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; mobile: 0903 287 057; Zalo: +84903287057; Skype: vinh.bross; Wechat: Vinhbross2603.