Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng (hợp đồng li-xăng) giống cây trồng theo pháp luật Việt Nam
Email: vinh@bross.vn
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được.
Quyền độc quyền khai thác và sử dụng giống cây trồng về cơ bản chỉ phát sinh dựa trên trên Bằng bảo hộ giống cây trồng[1] được Văn phòng bảo hộ giống cây trồng – Cục trồng trọt cấp sau khi giống cây trồng xin đăng ký đã được thẩm định là đáp ứng 5 điều kiện bảo hộ: (a) có tính mới, (b) tính khác biệt, (c) tính đồng nhất, (d) tính ổn định, và (e) có tên phù hợp, và phải thuộc danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành[2].
Chủ bằng bảo hộ giống cây trồng có thể thương mại hóa quyền độc quyền của mình bằng cách cách cấp quyền sử dụng và khai thác giống cây trồng được bảo hộ cho bên thứ ba thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng (hoặc còn gọi là hợp đồng li-xăng).
Tương tự như hợp đồng li-xăng quyền sở hữu công nghiệp, hợp đồng li-xăng quyền đối với giống cây trồng được bảo hộ cũng được pháp luật yêu cầu phải lập thành hợp đồng bằng văn bản trong đó bên giao li-xăng (chủ bằng bảo hộ giống cây trồng) cho phép bên nhận li-xăng được thực hiện một hoặc một số quyền độc quyền mà bên li-xăng được bảo hộ độc quyền đối với vật liệu nhân giống, vật liệu thu hoạch chẳng hạn như sản xuất, nhân giống, chế biến, chào hàng, bán, xuất khẩu,…[3]
Nội dung hợp đồng li-xăng quyền sử dụng giống cây trồng được bảo hộ bao gồm:[4]
(a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền;
(b) Căn cứ chuyển giao quyền sử dụng;
(c) Phạm vi chuyển giao, gồm giới hạn quyền sử dụng, giới hạn lãnh thổ;
(d) Thời hạn hợp đồng;
(đ) Giá chuyển giao quyền sử dụng;
(e) Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền;
(g) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Khi đàm phán ký kết hợp đồng li-xăng giống cây trồng các bên cần lưu ý không đưa vào các điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên nhận li-xăng, đặc biệt là các điều khoản hạn chế không xuất phát từ quyền của bên giao li-xăng vì khi xảy ra tranh chấp các điều khoản này có thể bị tuyên bố vô hiệu bởi tòa án.
Tương tự như các hợp đồng li-xăng quyền sở hữu công nghiệp, hợp đồng li-xăng giống cây trồng được tự do thỏa thuận và ấn định ngày có hiệu lực bởi các bên mà không cần phải đăng ký với Văn phòng bảo hộ giống cây trồng.
Bross & Partners được cấp giấy phép hành nghề đại diện giống cây trồng trước Văn phòng bảo hộ giống cây trồng. Bross & Partners có năng lực tư vấn, đại diện nộp đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng, soạn thảo, đàm phán và giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng li-xăng giống cây trồng. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057, 84-4-3555 3466; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross.
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như IP Stars, World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và tên miền internet.
[1] Thực ra, tương tự như quyền tạm thời đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí theo điều 131 Luật SHTT, người nộp đơn/chủ bằng bảo hộ giống cây trồng cũng có quyền tạm thời đối với giống cây trồng tính từ thời điểm đơn đăng ký được công bố cho đến thời điểm Bằng bảo hộ giống cây trồng được cấp theo điều 189 Luật SHTT. Quyền tạm thời đối với giống cây trồng được hiểu là quyền chỉ dành cho giống cây trồng mà được cấp bảo hộ để ngăn chặn người khác sử dụng giống cây trồng đó nhằm mục đích thương mại bằng cách gửi cảnh báo tới người đang sử dụng đó biết về đơn đăng ký giống cây trồng đã được nộp và công bố để người đang sử dụng đó lựa chọn việc chấm dứt sử dụng giống cây trồng hoặc tiếp tục sử dụng. Nếu tiếp tục sử dụng thì chủ Bằng độc quyền có quyền yêu cầu người đang sử dụng đó phải trả một khoản tiền đền bù tương đương với giá chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng đó trong phạm vi và thời hạn sử dụng tương ứng
[3] Xem điều 186, 187 và 192 Luật SHTT
[4] Xem điều 25 Nghị định 88/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật SHTT về bảo hộ giống cây trồng