Nên chăng mạnh dạn thay đổi cơ chế phản đối cấp
văn bằng bảo hộ được đề xuất trong dự thảo Luật sửa đổi Luật SHTT để tăng năng suất thẩm định và xử lý tình trạng tồn đọng đơn đăng ký bị thẩm định trễ[1]?
Email: vinh@bross.vn
Phản đối cấp văn bằng bảo hộ là một thủ tục pháp lý cho phép cá nhân hoặc tổ chức có thể nộp ý kiến bằng văn bản gửi Cơ quan có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ KHCN hoặc Văn phòng bảo hộ giống cây trồng mới thuộc Cục Trồng trọt – Bộ NN&PTNN) yêu cầu không cấp giấy văn bằng bảo hộ cho đơn đăng ký sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý) hoặc bằng bảo hộ giống cây trồng[2] vì lý do mà cá nhân hoặc tổ chức này cho rằng văn bằng bảo hộ đó nếu được cấp sẽ dẫn tới xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Không có khái niệm phản đối cấp văn bằng bảo hộ trong Luật SHTT mà chỉ có khái niệm tương đương là “ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ” ở điều 112 và điều 181 quy định nguyên tắc áp dụng cơ chế phản đối cấp văn bằng bảo hộ đối với tất cả các quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở phải đăng ký và quyền đối với giống cây trồng mới.
Xét về thực chất, thủ tục phản đối (trừ phản đối với giống cây trồng) theo Luật SHTT trên thực tiễn hiện tại chưa thực sự mang tính chất là một thủ tục độc lập giống như các thủ tục khác như chấm dứt hiệu lực, hủy bỏ hiệu lực hoặc khiếu nại vì Luật SHTT hiện tại chỉ xem phản đối là việc cho phép bên thứ 3 có ý kiến với Cục SHTT trong giai đoạn thẩm định nội dung, trong đó phản đối chỉ đóng vai trò là nguồn thông tin bổ sung phục vụ cho việc thẩm định. Nói cách khác, phản đối của Việt Nam đi theo cách tiếp cận phản đối kết thúc đóng (close-end opposition approach) khác với nhiều quốc gia khác như Nhật, Mỹ, Trung Quốc,…đi theo cách tiếp cận phản đối kết thúc mở (open-end opposition approach).
Riêng đối với nhãn hiệu – đối tượng sở hữu công nghiệp bị phản đối nhiều nhất, thực tiễn cho thấy, cách tiếp cận phản đối kết thúc đóng đưa đến nhiều cái hại hơn là cái lợi, chẳng hạn như: (a) thời hạn cho phép phản đối quá dài trong khi không có nước nào quy định dài như ở Việt Nam; (b) cơ chế phản đối không nhất quán giữa phản đối đơn đăng ký quốc tế chỉ định Việt Nam và đơn đăng ký quốc gia nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu trí tuệ; (c) hệ thống phản đối đang bị lạm dụng; (d) không có cơ chế phản đối dựa trên nhãn hiệu nổi tiếng[3].
Dự thảo bổ sung thêm điều 112a (bên cạnh điều 112 giữ nguyên) để khắc phục bất cập hiện nay về thủ tục phản đối. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi viêc Dự thảo đề xuất rút ngắn thời gian tiếp nhận đơn phản đối xuống 9 tháng, 4 tháng, 5 tháng và 3 tháng so với quy định cũ là 18 tháng, 7 tháng, 9 tháng và 6 tháng đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý tương ứng là chưa đủ để giải quyết được tận gốc các bất cập của cơ chế phản đối hiện tại gồm cả tình trạng tồn đọng cả trăm ngàn đơn đăng ký sở hữu công nghiệp đã quá hạn thẩm định.
Vì lẽ đó, chúng tôi đề xuất là Việt Nam nên chăng đi theo cách tiếp cận phản đối kết thúc mở, cụ thể phản đối sẽ bắt đầu từ ngày Cục SHTT hoàn tất thẩm định nội dung bằng việc ban hành thông báo dự định cấp văn bằng bảo hộ. Nếu theo cách tiếp cận mới này, ngoài việc giải quyết được 4 cái bất lợi nêu trên, Việt Nam còn có thể xây dựng được cơ chế phản đối thông minh và linh hoạt đạt được 4 mục tiêu:
(a) tách bạch và độc lập hóa kết quả thẩm định nội dung với phản đối;
(b) tăng năng suất thẩm định đơn đăng ký (đặc biệt là đơn đăng ký nhãn hiệu) bằng cách thiết lập khúc nào ra khúc đó, không làm bối rối thẩm định viên, góp phần đáng kể cho việc xử lý các đơn tồn đã quá hạn thẩm định;
(c) giúp quá trình thẩm định theo sát thời hạn luật định trở nên khả thi hơn vì thẩm định viên chỉ thẩm định dựa theo nguồn tin thông tin tối thiểu, cụ thể là quyết định cấp hoặc từ chối nhãn hiệu theo 2 tiêu chuẩn bảo hộ là khả năng tự phân biệt và khả năng xung đột với quyền có trước; và
(d) việc giải quyết phản đối khi đó mang tính chất là một thủ tục độc lập theo đúng nghĩa của nó, tương tự như thủ tục chấm dứt, hủy bỏ hoặc khiếu nại.
Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057, 84-4-3555 3466; Wechat: Vinhbross2603; Skype: vinh.bross.
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, được xếp hạng nhất (Tier 1) về sở hữu trí tuệ năm 2021 bởi Tạp chí nổi tiếng Legal 500 Asia Pacific. Bross & Partners cũng thường xuyên lọt vào bảng xếp xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam được công bố bởi Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Sở hữu năng lực chuyên môn khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.
[2] Bảy loại đơn đăng ký gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp và nhãn hiệu đều có thể là đối tượng bị phản đối cấp văn bằng bảo hộ theo điều 6(3) & (4) Luật SHTT