KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT
NHÃN HIỆU BAO GỒM CẢ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG CỦA NHẬT BẢN[1]
[Phần 1/2]
Thời kỳ trước năm 1909
Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới xét về quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2016 với hơn 4.400 tỷ đô la Mỹ theo tính toán của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và được xem là quốc gia có hạ tầng công nghệ tiên tiến và nền kinh tế phát triển ở trình độ cao[2]. Về pháp luật, Nhật Bản phát triển hệ thống pháp luật thương mại hầu như chỉ dựa trên tập quán đến trước thời kỳ Minh Trị (Meiji) bắt đầu từ năm 1868. Các lĩnh vực pháp luật khác như luật hình sự hoặc luật công của Nhật Bản mặc dù vốn bị xem là bị ảnh hưởng lớn bởi pháp luật Trung Quốc song hệ thống luật thương mại Nhật Bản vẫn có bản sắc địa phương riêng của nó, đặc trưng ở chỗ các tranh chấp thương mại thường được giải quyết trước hết thông qua các bộ quy tắc tập quán kinh doanh được quy định bởi các nghiệp đoàn hoặc phường hội trước khi nó được đưa ra tòa án[3].
Pháp luật về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là lĩnh vực liên quan đến việc nhãn hiệu, được ban hành khá sớm ở Nhật Bản, cụ thể phải kể đến Các Quy Định về Nhãn Hiệu ban hành năm 1884 gồm 24 điều và các quy tắc bổ sung – có ý nghĩa như một văn bản pháp luật – trong đó chứa đựng các nguyên tắc căn bản giúp định hình hệ thống luật nhãn hiệu hiện đại của Nhật Bản về sau này, và trong đó người ta tìm thấy nguyên tắc “nộp đơn đầu tiên” (first to file)[4]. Sau đó, vào năm 1888 sau chuyến công du nước ngoài nghiên cứu tìm hiểu về nhãn hiệu, Tử tước Takahashi Korekiyo, một chính trị gia nổi tiếng của Nhật Bản, người mà về sau này là thủ tướng thứ 13 của Nhật Bản[5], đã công bố Các Quy Định về Nhãn Hiệu gồm 28 điều ngày 18/12/1888.
Văn bản này ra đời để nhằm tương thích với Các Quy Định về Sáng Chế liên quan đến thủ tục xét nghiệm và giải quyết tranh chấp. Đến năm 1899, Nhật Bản tham gia Công Ước Paris theo đó đòi hỏi Nhật Bản phải sửa đổi luật pháp để đảm bảo tuân thủ cam kết quốc tế mà nó là thành viên[6]. Dấu ấn lớn nhất của năm này là việc công bố Luật nhãn hiệu ngày 01/03/1889 và có hiệu lực ngay trong tháng 7 cùng năm, trong đó lần đầu tiên luật hóa nghề đại diện thay mặt người nộp đơn ở nước ngoài xin xác lập quyền ở Nhật Bản cũng như vấn đề xin quyền ưu tiên. Ngoài ra luật này còn cho phép người nộp đơn bị từ chối nhãn hiệu có quyền khiếu nại lên Daishinin, tòa cấp cao nhất dưới thời Minh Trị.
Thời kỳ sau năm 1909
Đến năm 1909 do yêu cầu phát triển công nghiệp và thực hiện các cam kết quốc tế của mình liên quan đến sở hữu trí tuệ, Nhật Bản tiếp tục thực hiện việc sửa đổi bốn[7] đạo luật về sở hữu công nghiệp trong đó có Luật nhãn hiệu. Lần thay đổi này được đánh giá là đặt nền tảng quan trọng cho lần thay đổi lớn hơn diễn ra sau đó vào năm 1921, bằng việc quy định cụ thể về tiêu chuẩn đăng ký, lợi ích của chủ nhãn hiệu và của bên thứ ba nhưng đặc biệt nhất là Luật nhãn hiệu năm 1909 lần đầu tiên quy định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, quy định hủy bỏ các nhãn hiệu đã đăng ký không được sử dụng trong thương mại cũng như các quy định giúp hoàn thiện hơn về cơ chế khiếu nại các từ chối bảo hộ bởi xét nghiệm viên.
Số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu tăng vọt trong thời kỳ Nhật Bản phát triển mạnh mẽ về công nghiệp dẫn đến nhu cần cần phải sửa đổi Luật nhãn hiệu năm 1909, theo đó Luật nhãn hiệu năm 1921 được công bố rộng rãi vào ngày 30/04/1921 và bắt đầu có hiệu lực từ 11/01/1922. Trong suốt vài thập kỷ sau đó Luật nhãn hiệu năm 1921 được sửa đổi nhỏ nhiều lần vào các năm 1929, 1934, 1938, 1947, 1948, 1949 và 1951. Do vậy Luật nhãn hiệu năm 1921 vẫn được xem như vẫn tiếp tục có hiệu lực từ năm 1921 cho đến khi ban hành Luật nhãn hiệu năm 1959 như được tiếp tục trình bày dưới.
Kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước sau khi bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Ngày 13/04/1959 Nhật Bản thông qua Luật nhãn hiệu năm 1959, hay còn gọi là đạo luật số 127, có hiệu lực từ 01/04/1960.
Luật nhãn hiệu năm 1959 thể hiện nhiều thay đổi lớn, trong đó đặc biệt phải kể đến đạo luật này đưa ra định nghĩa “nhãn hiệu”, “nhãn hiệu đã đăng ký”, “dấu hiệu” và “sử dụng”. Chẳng hạn như khái niệm nhãn hiệu được định nghĩa là bất kỳ ký tự, con số, dấu hiệu hoặc hình 3 chiều hoặc bất kỳ sự kết hợp nào giữa các yếu tố này có thể kèm màu sắc được sử dụng gắn liền với hàng hóa của người sản xuất, chứng nhận hoặc chuyển nhượng hàng hóa dưới danh nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh[8].
Luật nhãn hiệu năm 1959 quy định tiêu chuẩn bảo hộ đối với nhãn hiệu khá rõ ràng và chi tiết, chẳng hạn như dấu hiệu xin đăng ký không được bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu nó nếu chỉ gồm dấu hiệu chỉ dẫn, theo cách thông thường, tên thông thường của hàng hóa, hoặc được sử dụng cho hàng hóa/dịch vụ mang tính tập quán, hoặc chỉ gồm dấu hiệu, theo cách thông thường, chỉ dẫn nguồn gốc, nơi bán, chất lượng, nguyên liệu, công năng, mục đích sử dụng, số lượng, hình ảnh sản phẩm, hoặc chỉ dẫn họ hoặc tên pháp nhân[9].
Đáng lưu ý là luật này còn đặt ra nguyên tắc bất kể dấu hiệu xin đăng ký không vi phạm tiêu chuẩn bảo hộ nêu tại Điều 3(1) thì nó vẫn không được chấp nhận đăng ký nếu nó trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu của người khác mà đã được nộp đơn trước ngày nộp đơn xin đăng ký dấu hiệu đó nếu dấu hiệu xin đăng ký sử dụng cho hàng hóa/dịch vụ thuộc phạm vi của nhãn hiệu đã đăng ký hoặc hàng hóa/dịch vụ tương tự với nó, hoặc nó trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu của người khác mà được biết tới rộng rãi bởi người tiêu dùng khi chỉ dẫn hàng hóa/dịch vụ liên quan đến hoạt động kinh doanh của người đó nếu dấu hiệu xin đăng ký được dùng cho hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng[10] hoặc hàng hóa/dịch vụ tương tự với nó, hoặc trùng với nhãn hiệu liên kết (defensive mark) đã đăng ký của người khác nếu dấu hiệu xin đăng ký được sử dụng cho hàng hóa/dịch vụ liên quan đến nhãn hiệu liên kết đó[11]
Luật nhãn hiệu năm 1959 là bằng chứng rõ rệt nhất tiếp tục khẳng định lập trường nhất quán của Nhật Bản là một quốc gia theo hệ thống dân luật[12], cụ thể trong lĩnh vực nhãn hiệu, nguyên tắc nộp đơn đầu tiên được quy định tại điều 8 theo đó trường hợp có hai hoặc nhiều đơn xin đăng ký cho các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự mà được sử dụng cho hàng hóa trùng hoặc tương tự thì chỉ có người nộp đơn nào nộp đơn sớm nhất mới có tư cách đăng ký nhãn hiệu đó. Trường hợp có hai hoặc nhiều người nộp đơn cùng nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự cho hàng hóa/dịch vụ trùng hoặc tương tự thì chỉ duy nhất người nộp nào mà được tự chọn trên cơ sở thương lượng giữa họ mới được quyền đăng ký nhãn hiệu đó. Đạo luật này đi đến quy định giải quyết tận cùng vấn đề quyền nộp đơn bằng quy định khá thú vị rằng nếu không có thỏa thuận đạt được giữa các người nộp đơn thì chỉ có một người nộp đơn duy nhất, được chọn bằng cách quay sổ xố ngẫu nhiên được tiến hành theo cách công bằng và khách quan bởi cơ quan nhãn hiệu, mới có quyền đăng ký nhãn hiệu.
Cho đến năm 1975, Luật số 46 đã được thông qua ngày 25/6/1975 với các mục tiêu chính là hướng tới loại bỏ tình trạng quá tải trong xét nghiệm đơn, thúc đẩy nghĩa vụ phải sử dụng nhãn hiệu đối với chủ văn bằng bảo hộ, áp đặt nghĩa vụ chứng minh chống lại yêu cầu hủy bỏ hiệu lực do không sử dụng nhãn hiệu đối với chủ thể quyền, xét nghiệm việc sử dụng nhãn hiệu tại thời điểm yêu cầu gia hạn[13].
[Còn nữa…]
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Bross & Partners có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn sâu hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài bao gồm cả Mỹ, EU, Canada, Trung Quốc, Thailand. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ vinh@bross.vn hoặc điện thoại 0903 287 057.
[1] Trích Báo cáo nghiên cứu thuộc Dự án bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp công bố ngày 17/11/2017 tại Hà Nội và được phát hành bởi Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật năm 2017 bởi đồng tác giả Ls. Lê Quang Vinh và Ts. Phan Ngọc Tâm
[3] Xem Overview on the Japanese Legal System, Elliott J. Hahn, Northwestern Journal of International Law and Business, Volume 5, Issue 3 Fall, trang 518
[7] Bốn đạo luật về sở hữu công nghiệp này gồm Luật sáng chế, Luật Kiểu dáng công nghiệp, Luật mẫu hữu ích (giải pháp hữu ích) và Luật nhãn hiệu. Xem Junichi Eguchi, History of Amendments to the Unfair Competition Prevention Act of Japan - From a developing country to a developed country, OSAKA UNIVERSITY LAW REVIEW, No. 41:1
[10] Nguyên văn bản dịch tiếng Anh Điều 4(1)(x): is identical with, or similar to, another person's trademark which is well known among consumers as that indicating goods or services in connection with the person's business, if such a trademark is used in connection with such goods or services or goods or services similar thereto
11] Xem Điều 4(1)(x), (xi), (xii) Luật nhãn hiệu Nhật Bản năm 1959