Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
(Phần 3/4) Hiểu toàn diện pháp luật bản quyền tác giả và quyền liên quan của Việt Nam dưới dạng hỏi đáp
(Ngày đăng: 2019-04-17)

Email: vinh@bross.vn

 

15. Các hành vi liên quan đến tác phẩm được bảo hộ bị xem là hành vi xâm phạm

 

Nói chung, rất nhiều hành vi như chiếm đoạt, mạo danh, công bố, sữa chữa, cắt xén,…liên quan đến một tác phẩm được bảo hộ mà không xin phép hoặc không trà thù lao cho tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả đều bị xem là xâm phạm quyền tác giả. Theo điều 28 Luật SHTT có 16 hành vi, dạng hành vi xâm phạm quyền tác giả:

1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.

2. Mạo danh tác giả.

3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.

4. Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.

5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.

7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.

8. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.

9. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.

10. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

11. Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

12. Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.

13. Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.

14. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.

15. Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.

16. Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

 

16. Quyền nhân thân có thể được miễn thi hành hoặc có thể chuyển nhượng được không?

 

Có. Nhưng bạn chỉ có thể miễn hoặc chuyển nhượng đối với duy nhất một trong số bốn quyền nhân thân vì quyền nhân thân theo quy định của Luật SHTT gắn liền với quyền tác giả và quyền liên quan, có đặc trưng là tồn tại riêng biệt và độc lập với các quyền tài sản. Một trong số bốn quyền nhân thân duy nhất như đã nêu là ngoại lệ của quy tắc trên chính là quyền công bố tác phẩm. Tất nhiên, sẽ chẳng có gì phải bàn cãi nếu tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân đều thuộc cùng một chủ sở hữu người mà tạo ra hợp pháp tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.

 

Ba quyền nhân thân còn lại gắn liền với quyền tác giả được quy định trong Điều 19 gồm: (a) đặt tên cho tác phẩm; (b) đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; (c) bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

 

Đối với quyền nhân thân gắn liền với quyền liên quan, pháp luật thấy rằng chỉ cần thiết đặt ra đối với người biểu diễn (không áp dung quyền nhân thân đối với tổ chức phát sóng, tổ chức ghi âm/ghi hình), theo đó Điều 29(2) quy định 2 loại quyền nhân thân liên quan đến người biểu diễn: a) được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; b) bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.

 

Như trình bày ở các phần trên, các quyền nhân thân (trừ quyền công bô tác phẩm) dù gắn liền với quyền tác giả hay quyền liên quan không thể là đối tượng của các giao dịch chuyển nhượng, chuyển giao quyền sử dụng. Tính chất bảo vệ tuyệt đối quyền nhân thân (bảo hộ vô thời hạn và không thể chuyển giao) theo tinh thần chung của luật cho thấy có vẻ như quyền nhân thân cũng không thể được miễn thi hành ngay cả khi tác giả đồng ý.

 

17. Trong trường hợp nào chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cản các giao dịch tiếp theo liên quan đến tác phẩm mà mình đã đưa ra thị trường?

 

Câu hỏi này liên quan đến vấn đề cạn quyền sở hữu trí tuệ, hoặc hết quyền quyền sở hữu trí tuệ (exhaustion of right) mà trên thế giới còn được biết với tên gọi là học thuyết hết quyền (exhaustion doctrine) hoặc học thuyết bán hàng đầu tiên (first sale doctrine). Đặc trưng của cạn quyền hay hết quyền được hiểu là chủ thể quyền quyền sở hữu trí tuệ ngay sau khi tự mình hoặc cho phép người khác bán, khai thác, đem ra thị trường sản phẩm/dịch vụ gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ thì anh ta hoàn toàn cạn quyền, hết quyền thi hành đối với sản phẩm/dịch vụ được tiếp tục lưu hành và lưu thông.

 

Việt Nam đưa vấn đề cạn quyền, hết quyền vào Điều 125(2)(b) Luật SHTT quy định rằng chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ không có quyền cấm người khác thực hiện các hành vi sau đây: lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài.

 

Vì điều luật trên chỉ nói đến quyền sở hữu công nghiệp (quyền độc quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,…) mà không nhắc tới quyền tác giả, quyền liên quan do vậy có thể hiểu rằng Việt Nam chọn cách im lặng bày tỏ lập trường của mình đối với quyền tác giả, quyền liên quan. Hệ quả của việc im lặng này là chưa rõ các hành vi bán lại, phân phối, xuất khẩu, truyền đạt đến công chúng… tác phẩm bởi một người đã mua nó hợp pháp từ đầu cho bên thứ ba khác có nằm trong ngoại lệ không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ do đã cạn quyền hay không.

 

18. Cơ quan nào có thẩm quyền thực thi hoặc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thẩm quyền của họ cụ thể như thế nào?

 

Theo Điều 200 Luật SHTT, ngoài tòa án các cấp thì thanh tra, quản lý thị trường, hải quan, công an, ủy ban nhân dân các cấp đều có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

 

Khác biệt hẳn với hầu hết các nước khác thế giới nơi mà biện pháp dân sự , các biện pháp hành chính xử lý hành vi vi phạm bản quyền hoặc hàng hóa giả mạo thường được các chủ sở hữu bản quyền áp dụng hơn là qua con đường tố tụng dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự bởi vì những lý do về mặt thực thi, cụ thể là sự nhanh chóng trong việc bắt giữ và ngăn ngừa hành vi vi phạm, tiết kiệm thời gian và thủ tục đơn giản. Tuy nhiên, các trường hợp vi phạm bản quyền hoặc giả mạo hàng hóa sẽ được xử lý bởi các cơ quan thanh tra trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch hoặc các cơ quan trực thuộc cấp tỉnh của nó, những cơ quan đó có thẩm quyền và trách nhiệm quản lý, kiểm soát, xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hoá và quyền tác giả, quyền liên quan.

 

19. Ngoài chủ sở hữu quyền tác giả, những người nào có quyền yêu cầu xử lý hành vi vi phạm bản quyền đối với tác phẩm?

 

Ngoài chủ sở hữu quyền tác giả, người được chủ sở hữu cho phép hoặc người thừa kế của chủ sở hữu bản quyền có quyền tiến hành các thủ tục pháp lý chống lại các hành vi vi phạm quyền tác giả, miễn là các tài liệu hoặc chứng cứ được đưa ra chứng minh rằng họ đã được cho phép bởi chủ sở hữu quyền tác giả thông qua một hợp đồng bằng văn bản chẳng hạn như trao quyền sử dụng hoặc cho thuê, hoặc họ là người thừa kế của chủ sở hữu quyền tác giả thông qua một di chúc đã được công chứng, chứng thực.

 

20. Có thể xử lý hành vi của người vi phạm trung gian (secondary infringement) không? Nếu có thì cơ sở pháp lý nào để buộc người vi vi phạm trung gian phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm đó?

 

Trong Luật SHTT, không có quy định về người vi phạm "trung gian" mà chỉ quy định những người vi phạm trực tiếp. Tuy nhiên, một số quy định hướng dẫn thi hành Luật SHTT đối với người (bên) vi phạm trung gian được tìm thấy, chẳng hạn như Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông có hiệu lực từ tháng 8 năm 2012. Theo Thông tư liên tịch này, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian (Internet Service Providers viết tắt là ISPs) có trách nhiệm gỡ và xoá nội dung thông tin số vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cắt, ngừng và tạm ngừng đường truyền Internet, đường truyền viễn thông khi nhận được yêu cầu bằng văn bản của Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc Thanh tra Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp này cũng phải chịu trách nhiệm trực tiếp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật khác có liên quan trong các trường hợp sau:

a) Là nguồn khởi đầu đăng tải, truyền đưa hoặc cung cấp nội dung thông tin số qua mạng viễn thông và Internet mà không được phép của chủ thể quyền;

b) Sửa chữa, cắt xén, sao chép nội dung thông tin số dưới bất kỳ hình thức nào mà không được phép của chủ thể quyền;

c) Cố tình huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu hoá các biện pháp kỹ thuật do chủ thể quyền thực hiện để bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan;

d) Hoạt động như nguồn phân phối thứ cấp các nội dung thông tin số do vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan mà có.

Còn nữa….

 

Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross

 

Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.

 

Bookmark and Share
Relatednews
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal
So sánh quy trình xét nghiệm nhãn hiệu ở Việt Nam và Trung Quốc

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go