Thực thi quyền quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự theo pháp luật Việt Nam
Luật sư Lê Quang Vinh
Email: vinh@bross.vn
Giới thiệu
Bản chất xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là xâm phạm quyền dân sự, xâm phạm quyền tài sản mà Hiến pháp và pháp luật cho phép chủ thể quyền có thể bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình bằng biện pháp dân sự bao gồm cả đòi bồi thường thiệt hại. Hơn nữa, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn mang ý nghĩa là vi phạm quy định pháp luật về quản lý nhà nước nên người vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm bị xử phạt vi phạm hành chính cho vi phạm đó. Tuy nhiên, chế tài hành chính[1] hoặc chế tài dân sự[2] áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là không đủ khả năng ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả gắn liền với những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho người tiêu dùng và xã hội chẳng hạn như các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ. Chính vì thế, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong một số trường hợp cần thiết phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quy trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tội phạm quyền sở hữu trí tuệ[3] phức tạp và chặt chẽ hơn nhiều so với quy trình giải quyết hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp dân sự vì một mặt nó đòi hỏi sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra hình sự, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và mặt khác nó được điều chỉnh bởi nhiều đạo luật khác nhau như Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật thi hành án hình sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự,…
Để giúp bạn đọc tìm hiểu về quy trình xử lý một vụ án hình sự liên quan đến tội phạm quyền sở hữu trí tuệ, chúng tôi xin giới thiệu 4 giai đoạn tố tụng hình sự gồm[4]:
(a) khởi tố vụ án hình sự;
(b) điều tra vụ án hình sự;
(c) giai đoạn truy tố; và
(d) giai đoạn xét xử.
-
Khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên theo đó cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền đã xác định được có dấu hiệu tội phạm từ một trong sáu nguồn thông tin: (a) tố giác của cá nhân; (b) tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (c) tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; (d) kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; (e) cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; (f) người phạm tội tự thú[5].
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: (a) quyết định khởi tố vụ án hình sự; (b) quyết định không khởi tố vụ án hình sự; (c) quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố[6].
Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.
Viện kiểm sát có quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát đối với việc khởi tố vụ án bởi Cơ quan điều tra, cụ thể Viện Kiểm sát ra quyết định phân công Kiểm sát viên kiểm sát việc khởi tố và điều tra vụ án gửi cho Cơ quan điều tra nếu thấy Quyết định khởi tố vụ án là có căn cứ và hợp pháp, hoặc có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ Quyết định khởi tố nếu thấy nó không có căn cứ[7]
Tội phạm quyền sở hữu trí tuệ thường bị khởi tố và truy tố từ 2 nguồn thông tin chính gồm tố giác của cá nhân và kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước. Tố giác tội phạm bởi cá nhân là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền, chẳng hạn như Công ty cổ phần sản xuất nhôm Việt Pháp Shal chủ sở hữu nhãn hiệu Nhôm Việt Pháp tố giác Công ty cổ phần nhôm Việt Pháp - Nhà máy nhôm Việt Pháp có trụ sở tại phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy (Hà Nội) và Chi nhánh tại Khu công nghiệp Trung Hà, Tam Nông (Phú Thọ) đã có hành vi xâm phạm sở hữu công nghiệp[8]. Cần lưu ý rằng việc tố giác tội phạm bởi chính chủ thể quyền hay còn gọi là đề nghị khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là điều kiện bắt buộc để khởi tố vụ án hình sự đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo điều 226 trong khi điều này không bắt buộc đối với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo điều 225[9].
Cơ quan hành chính nhà nước đang thụ lý giải quyết bằng biện pháp hành chính đối với một vụ việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ cũng có thể phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm và có nghĩa vụ phải chuyển hồ sơ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự[10]. Trong xét xử dân sự, mặc dù có thể hiếm gặp việc chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xem xét khởi tố vụ án hình sự, song về nguyên tắc thẩm phán cũng có thể chủ động chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền gồm cả Viện kiểm sát xem xét khởi tố vụ án hình sự đối với việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm[11]
-
Giai đoạn điều tra
Điều tra hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai trong đó Cơ quan điều tra sẽ tiến hành nhiều hoạt động tố tụng luật định khác nhau để xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố như xác minh, thu thập chứng cứ phạm tội, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội….
Các vụ án quyền sở hữu trí tuệ thường được tiến hành điều tra bởi hệ thống Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, chủ yếu là hệ thống Cơ quan cảnh sát điều tra từ trung ương tới địa phương gồm Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện. Cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan điều tra này lại được chia nhỏ thành các cục, phòng, đội ví dụ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ (C03) là một cục thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ (PC03) thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh[12]. Ví dụ, trong vụ sản xuất rượu vodka Hà Nội giả liên quan đến tố cáo của Công ty CP Cồn rượu Hà Nội (HALICO) năm 2009, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra hình sự vụ án này là Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội (tên cũ là PC46 nay là PC03)[13]
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Nếu có căn cứ xác định tính chất phức tạp của vụ án, Cơ quan điều tra có thể có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra thêm một lần 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai lần mỗi lần không quá 04 tháng đối với đối với tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tối đa bốn lần, mỗi lần không quá 4 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo điều 226 và tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo điều 225 đều là tội phạm ít nghiêm trọng; tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo điều 192 và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi theo điều 195 là các tội phạm rất nghiêm trọng; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo điều 194 và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm theo điều 193 là 2 tội phạm đặc biệt nghiêm trọng[14]
Cơ quan điều tra sẽ ra Quyết định khởi tố bị can nếu có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sư quy định là tội phạm. Trong vòng 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản của người bị khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án[15].
Hàng loạt các hành động tố tụng sau khi khởi tố bị can được tiến hành bởi Cơ quan điều tra gồm triệu tập và hỏi cung bị can tại nơi điều tra, nơi ở của bị can hoặc tại cơ sở giam giữ (nếu bị can bị tạm giữ, tạm giam) hoặc tại Cơ quan điều tra. Tùy từng vụ việc, việc triệu tập lấy lời khai của bị hại, đương sự hoặc tiến hành đối chất có thể được tiến hành bởi Cơ quan điều tra nếu lời khai giữa hai hay nhiều người mâu thuẫn với nhau. Cơ quan điều tra cũng có thể ban hành lệnh khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện hoặc thu giữ các phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. Do tính chất phức tạp của quyền sở hữu trí tuệ, Cơ quan điều tra thường sẽ tiến hành trưng cầu một số loại giám định chẳng hạn như giám định hàng giả, giám định hàng hóa bị tạm giữ có phải là hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ hay chỉ là hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, giám định chất lượng của hàng hóa bị bắt giữ, hoặc giám định thiệt hại gây ra bởi hành vi phạm tội của bị can.
Tùy trường hợp kết thúc giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra có thể ban hành quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra hoặc bản kết luận điều tra cho trường hợp đề nghị truy tố. Trường hợp đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều vẫn phải ban hành bản kết luận điều tra cho trường hợp đình chỉ điều tra. Kết luận điều tra phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp cùng hồ sơ vụ án, giao bản kết luận điều tra cho bị can, người bào chữa trong khi đối với bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì gửi thông báo có kết luận điều tra. Kết luận điều tra cho trường hợp đình chỉ điều tra được ban hành khi có căn cứ xác định không có sự việc phạm tội, hoặc hành vi bị xem xét không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, hoặc bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo điều 226[16] trong khi đó quyết định tạm đình chỉ điều tra được ban hành khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án, hoặc trưng cầu giám định, định giá tài sản chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra
-
Giai đoạn truy tố[17]
Là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự, truy tố mang tính chất là quyết định của cơ quan thực hành quyền công tố - Viện kiểm sát nhân dân - sau khi đã nhận được bản kết luận điều tra đề nghị truy tố từ Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát phải đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ mọi căn cứ pháp lý và hồ sơ tài liệu hiện có để ban hành một trong ba quyết định: (a) truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); (b) trả lại hồ sơ yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung; hoặc (c) đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án
Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong ba quyết định nêu trên. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Bản cáo trạng gửi đến Tòa án bởi Viện kiểm sát trong trường hợp Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án phải nêu rõ diễn biến hành vi phạm tội, chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cũng như các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc thu giữ vật chứng. Cáo trạng cũng phỉa ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng
-
Giai đoạn xét xử
Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát mang tính chất là lời buộc tội của nhà nước đối với bị can cho nên nó phải được xét xử bởi cơ quan độc lập khác là Tòa án để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc hiến định nói rằng người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai[18].
Tòa án với vai trò là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử có trách nhiệm xem xét đưa vụ án hình sự ra xét xử để xem xét, đánh giá độc lập, khách quan và toàn diện vụ án trước khi quyết định vấn đề mấu chốt của vụ án là có tội hay không có tội[19].
Theo luật định thì xét xử vụ án hình sự tại Tòa án có thể là xét xử sơ thẩm trong trường hợp Tòa án nhận được quyết định truy tố kèm theo cáo trạng của Viện kiểm sát chuyển sang cùng với toàn bộ hồ sơ vụ án, hoặc có thể là xét xử phúc thẩm nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị; hoặc xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị. Ví dụ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quyết định kháng nghị số 28/QĐ/VKSTC - V3 đối với bản án hình sự phúc thẩm số 263 ngày 31/5/2010 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh và bản án sơ thẩm số 21 ngày 22/01/2010 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình và yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy các bản án trên; giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật vì lý do Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm căn cứ số tiền định giá là 149.160.000đ bởi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình để xử phạt bị cáo là không đúng pháp luật vì nguyên tắc định giá tài sản phải là định giá hàng hóa thật (12.440 áo thun nhãn hiệu ADIDAS và 2.476 áo thun nhãn hiệu NIKE) bán trên thị trường nên không thể lấy giá trị hàng hóa giả làm căn cứ định giá.[20]
Về lý thuyết quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ban hành bởi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn có thể mắc sai lầm nghiêm trọng về áp dụng pháp luật hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì thế luật quy định trong trường hợp có đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải xem xét lại quyết định đó bằng việc mở phiên họp có sự tham gia của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đại diện Ủy ban tư pháp của Quốc hội[21]
Bross & Partners có kinh nghiệm hỗ trợ, đại diện cho khách hàng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự gồm tố cáo tội phạm về sở hữu trí tuệ, làm việc với Cơ quan điều tra, đại diện pháp lý bảo vệ chủ thể quyền trong các vụ án hình sự liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057, 84-4-3555 3466; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.
[3] Tội phạm quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm khách thể là quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Một số hành vi vâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đạt đến ngưỡng bị coi là nguy hiểm cho xã hội, hoặc đạt ngưỡng quy mô thương mại thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hành vi này được biểu hiện thông qua sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý hoặc xâm phạm quyền độc quyền sao chép, quyền độc quyền phân phối đến công chúng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan. Nhìn chung, tội phạm sở hữu trí tuệ có thể bị áp dụng biện pháp hình sự thuộc 1 trong 6 tội danh được quy định ở Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, gồm:
Điều 225 - Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan;
Điều 226 - Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
Điều 192 – Tội sản xuất, buôn bán hàng giả;
Điều 193 - Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm;
Điều 194 - Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; và
Điều 195 - Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi.
Xem thêm “Cơ sở pháp lý của truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam hiện hành” ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Co-so-phap-ly-cua-truy-cuu-trach-nhiem-hinh-su-doi-voi--cac-toi-xam-pham-quyen-so-huu-tri-tue-theo-phap-luat-Viet-Nam-hien-hanh
[5] Xem điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[6] Xem điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[7] Xem điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điều 7 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng
[9] Xem điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[11] Ví dụ theo khoản 2 điều 103 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án chuyển tài liệu, chứng cứ có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
[12] Xem các điều 4, 5, 8 và 18 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015
[14] Xem điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a, c khoản 1 điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015
[15] Xem điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[16] Xem các điều 179, 299, 230, 233, 234, 155 và 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[17] Xem các điều từ 243 đến 249 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[18] Xem khoản 2 điều 31 Hiến pháp Việt Nam năm 2013
[19] Xem các điều từ 102 đến 106 Hiến pháp Việt Nam năm 2013
[20] Xem “Rút kinh nghiệm qua việc giám đốc thẩm vụ án Ngô Thị Phương, phạm tội: sản xuất hàng giả” ở link: https://vksndtc.gov.vn/tin-chi-tiet-2712
[21] Xem các điều từ 404 đến 412 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015