Quy định mới về hàng giả theo pháp luật Việt Nam
Email to: vinh@bross.vn
Hàng giả (có lẽ phải gọi chính xác phải là hàng hóa giả hoặc hàng hóa giả mạo) nhìn chung được hiểu là một loại hàng hóa bị làm giả về hình thức, hoặc chất lượng hoặc cả hình thức và chất lượng của hàng hóa thật được sản xuất bởi người khác khiến cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn khi lựa chọn mua hàng vì họ không thể phân biệt được đâu là hàng thật và đâu là hàng giả.
Hàng giả theo Nghị định 185/2013/NĐ-CP (đã hết hiệu lực từ 15/10/2020)
8 loại hàng hóa nếu rơi vào một trong các trường hợp sau đây thì phải bị xem là hàng giả theo Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013[1]:
(1) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
(2) Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;(
(3) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
(4) Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
(5) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác;
(6) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
(7) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213[2] Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005;
(8) Tem, nhãn, bao bì giả.
Hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ không còn nằm trong danh mục hàng giả ở Nghị định 98/2020/NĐ-CP (có hiệu lực từ 15/10/2020)
Nghị định 98/2020/NĐ-CP ban hành ngày 26/08/2020 thay thế Nghị định 185/2013/NĐ-CP[3] xác định có 6 loại hàng hóa dưới đây bị coi là hàng giả:
(1) Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng hoặc có giá trị sử dụng, công dụng không đúng so với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
(2) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
(3) Thuốc giả theo quy định tại khoản 33 Điều 2 của Luật Dược năm 2016 và dược liệu giả theo quy định tại khoản 34 Điều 2 của Luật Dược năm 2016;
(4) Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; không có đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; có ít nhất một trong các hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng;
(5) Hàng hóa có nhãn hàng hóa hoặc bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc nhập khẩu, phân phối hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã số công bố, mã số mã vạch của hàng hóa hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác; giả mạo về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa hoặc nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
(6) Tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả.
Như vậy, chúng ta thấy rằng chỉ có 6 loại hàng hóa bị xem là hàng giả theo Nghị định 98/2020/NĐ-CP so với 8 loại hàng hóa bị xem là hàng giả theo Nghị định 185/2013/NĐ-CP đã hết hiệu lực. Nói cách khác, cần đặc biệt lưu ý rằng hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo điều 213 Luật SHTT (vốn được xếp vào 1 trong 8 loại hàng giả ở Nghị định 185/2013/NĐ-CP) nay đã bị loại ra khỏi danh sách hàng giả theo Nghị định 98/2020/NĐ-CP.
Việc loại bỏ hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo điều 213 Luật SHTT ra khỏi danh mục 6 loại hàng giả ở Nghị định 98/2020/NĐ-CP theo quan điểm của chúng tôi là không hợp lý vì:
-
Hàng giả đôi khi chứ không luôn luôn là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hoặc ngược lại hàng hóa giả mạo nhãn hiệu đôi khi chứ không luôn luôn là hàng giả;
-
Nghị định 99/2013/NĐ-CP không có khái niệm hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ mà chỉ có quy định xử lý hành vi sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý dẫn đến có thể sẽ có nhiều tranh cãi về nguyên tắc xác định hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý
-
Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ thực chất được chuyển ngữ từ thuật ngữ “counterfeit goods” hoặc “counterfeit trademark goods” được quy định trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) mà Việt Nam là thành viên và Việt Nam có nghĩa vụ phải nội luật hóa trong luật quốc gia của mình làm điều kiện tiên quyết để Việt Nam được chấp nhận là thành viên thứ 150 của WTO. Cũng theo TRIPs, hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu phải bị xử lý về hình sự nếu hành vi đó đạt ngưỡng gọi là “quy mô thương mại” (on a commercial scale) mà được Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 của Việt Nam lượng hóa bằng ngưỡng vật chất, chẳng hạn như đối tượng vi phạm thu lợi bất chính từ 100 triệu trở lên hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200 triệu trở lên[4]
Bross & Partners có kinh nghiệm tranh tụng hình sự và tranh tụng dân sự các vụ án liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ cũng như có kinh nghiệm tham gia xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ vinh@bross.vn hoặc điện thoại 0903 287 057.
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam (bao gồm cả tranh tụng) liên quan đến nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và tên miền internet.
[1] Xem khoản 8 điều 3 Nghị định 85/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng
[2] Điều 213 Luật SHTT. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ
1. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hóa sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.
3. Hàng hóa sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
[3] Nghị định 98/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/10/2020 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng còn thay thế 2 Nghị định khác gồm:
(a) Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
(b) Nghị định số 141/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.
[4] Hành vi sản xuất hoặc buôn bán hàng giả mà được kết luận là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu theo điều 213 Luật sở hữu trí tuệ về nguyên tắc sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 226 Bộ luật hình sự. Theo điều 226, một cá nhân có thể phải chịu hình phạt chính (hình sự) là phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 1 tỷ đồng, hoặc bị cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm nếu hành vi của cá nhân này đồng thời thỏa mãn 3 yếu tố cấu thành tội phạm:
(a) cá nhân đó thực hiện hành vi với lỗi cố ý, và
(b) đối tượng bị xâm phạm là nhãn hiệu giả mạo hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo, và
(c) hành vi xâm phạm được thực hiện với quy mô thương mại, hoặc cá nhân này đã thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng, hoặc gây thiệt hại cho chủ nhãn hiệu từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu, hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng
Xem thêm bài “Hàng giả và hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ ở Việt Nam” ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Hang-gia-va-hang-hoa-gia-mao-so-huu-tri-tue-o-Viet-Nam