Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
Đề xuất của Bross & Partners về giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan được đưa vào Dự thảo Luật SHTT sửa đổi
(Ngày đăng: 2021-07-19)

Đề xuất của Bross & Partners về giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm

quyền tác giả và quyền liên quan được đưa vào Dự thảo Luật SHTT sửa đổi

 

Email: vinh@bross.vn

 

Nguyên tắc pháp lý về giới hạn và ngoại lệ

 

Giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả (exception and limitation) là một nguyên tắc pháp lý được quy định ở điều 9(2) Công ước Berne và điều 13 Hiệp định TRIPs[1] nhằm 2 mục đích là giới hạn phạm vi thực thi các quyền độc quyền của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan và bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng.

 

Luật SHTT năm 2005 sửa đổi 2 lần vào năm 2009 và 2019 (“Luật SHTT”) nội luật hóa nguyên tắc pháp lý nêu trên vào 2 cặp điều luật gồm điều 25 - điều 26 liên quan đến quyền tác giả[2] và điều 32 – điều 33 liên quan đến quyền liên quan, trong đó điều 25 và điều 32 mang tính chất là ngoại lệ không xâm phạm và điều 26 và điều 33 mang tính chất là giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan.[3]

 

Đề xuất của Bross & Cộng sự về ngoại lệ và giới hạn xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan[4] được đưa vào Dự thảo Luật SHTT mới nhất

 

Tên “Điều 25 - Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” và “Điều 32 - Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù laoở Dự Thảo (cũng như ở Luật SHTT hiện hành) là chưa thể hiện đúng bản chất của ngoại lệ và giới hạn nêu trên vì các điều luật hiện tại chỉ nói đến hành vi “sử dụng” nhưng phần nội dung của điều luật lại liệt kê nhiều hành vi khác nhau như làm bản sao dưới dạng “tự sao chép”, “sao chép”, “trích dẫn”, “biểu diễn”, “chụp ảnh”, “chuyển định dạng”, Do vậy, chúng tôi đã đề xuất sửa tên cặp điều khoản về “ngoại lệ không xâm phạm” thành “Điều 25 - Ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả” vàĐiều 32 - Ngoại lệ không xâm phạm quyền liên quan”.

 

Tương tự như cặp điều khoản về ngoại lệ, tên cặp điều khoản về “giới hạn quyền”, cụ thể “Điều 26 - Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả nhưng phải trả tiền bản quyền” Điều 33 - Các trường hợp sử dụng đối tượng quyền liên quan không phải xin phép chủ sở hữu quyền liên quan nhưng phải trả tiền bản quyền” cũng không hợp lý vì một số lý do: cặp điều khoản 26-33 này mang tính chất là cấp li-xăng cưỡng bức (li-xăng không tự nguyện), nghĩa là được tự do khai thác nhưng phải trả tiền; khái niệm “sử dụng” tác phẩm đã công bố/”sử dụng” quyền liên quan đã công bố là quá hẹp trong khi vẫn luôn tồn tại các hành vi khác như khai thác, làm bản sao (ví dụ chia sẻ link, file, tệp, tải về,...); thiếu điều kiện “đã công bố” đối với đối tượng quyền liên quan ở tên điều 33. Vì lẽ đó, chúng tôi đã đề xuất sửa thành “Điều 26 - Hạn chế quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm đã công bố” Điều 33 - Hạn chế quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng của quyền liên quan đã công bố.

 

Phép thử ba bước (three-step test) theo quy định ở Điều 9(2) Công ước Berne có 2 ý nghĩa pháp lý. Một là tránh tình trạng lạm dụng khai thác bản sao tác phẩm đã công bố/đối tượng quyền liên quan đã công bố không phải xin phép và không phải trả tiền. Hai là xác lập ranh giới giữa không xâm phạm quyền tác giả/quyền liên quan với xâm phạm quyền tác giả/quyền liên quan. Cụ thể, phép thử ba bước gồm: Bước 1 - Được làm bản sao trong một số trường hợp đặc biệt được pháp luật quốc gia quy định; và Bước 2 - Việc làm bản sao đó không gây xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm; và Bước 3: Việc làm bản sao đó không được gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả. Việc Dự Thảo (và cả Luật SHTT hiện hành) đều bố trí gộp bước 2 và bước 3 của phép thử ba bước ở khoản 2 thuộc các Điều 25, 26 và 32 hoặc ở khoản 3 Điều 33 là rất dễ gây hiểu nhầm trong thực tiễn áp dụng pháp luật như vụ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao mắc sai lầm khi xét xử vụ chấp quyền tác giả giữa 2 cố học giả Kiều học theo bản án phúc thẩm số 127/DSPT ngày 14/6/2007.[5]

 

Chúng tôi đánh giá cao Ban Soạn Thảo đã tiếp thu hầu hết ý kiến góp ý của Bross & Cộng sự bao gồm cả đề xuất đảo bước 2 và bước 3 của phép thử ba bước thuộc 2 cặp điều 25-32 và điều 26-33 và đồng thời ghép với khoản 1 tương ứng. Dưới đây là trích toàn văn 2 cặp điều khoản: Điều 25 & Điều 32 về ngoại lệ không xâm phạm và Điều 26 & Điều 33 về hạn chế quyền sở hữu trí tuệ được trong Dự Thảo Luật SHTT mới nhất sắp được trình Quốc Hội thông qua.

 

Điều 25. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả

1. Trong những trường hợp dưới đây, tác phẩm đã công bố có thể được sử dụng mà không cần xin phép, không phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc sử dụng đó không mâu thuẩn với việc khai thác bình thường tác phẩm, không ảnh hưởng một cách bất hợp lý tới các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả và phải thông tin về tên tác giả,  nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm trừ trường hợp bắt buộc do cách thức sử dụng tác phẩm:

a) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sau:

(i) Sao chụp toàn bộ hoặc một phần trọng yếu của tác phẩm;

(ii) Sao chép bằng thiết bị sao chép tự động hoặc các thiết bị sao chụp khác được cài đặt để sử dụng công cộng;

b) Sao chụp hợp lý một phần tác phẩm nhằm mục đích giảng dạy trực tiếp của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại, trừ trường hợp tác phẩm được công bố để giảng dạy;

c) Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong các ấn phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tinh nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để đảm bảo chỉ học sinh, sinh viên và giáo viên tham gia học tập, giảng dạy trong buổi học đó mới có thể tiếp cận các tác phẩm này;

d) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của các cơ quan nhà nước;

đ) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để giảng dạy; để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;

e) Sao chép tác phẩm trong hoạt động thư viện bao gồm:

(i) Sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, không nhằm mục đích thương mại. Bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của Chính phủ;

(ii) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập không nhằm mục đích thương mại. Trong trường họp này, thư viện thực hiện việc sao chép tác phẩm phải kèm theo thông báo về quyền tác giả;

(iii) Sao chép hoặc truyền tải tác phẩm được lưu giữ để sử dụng trong các thư viện liên quan thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người sử dụng tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ; trừ trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số.

Trường hợp thư viện sao chép hoặc truyền đạt tác phẩm dưới dạng kỹ thuật số theo quy định tại điểm này phải áp dụng các biện pháp để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền tác giả;

g) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và câc loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;

h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

i) Tạo và sử dụng bản sao dễ tiếp cận của tác phẩm cho người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác (sau đây gọi chung là người khuyết tật) bao gồm:

(i) Người khuyết tật hoặc người trông nom, chăm sóc cho người khuyết tật có quyền tạo bản sao ở định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm nhằm mục đích sử dụng cá nhân của người khuyết tật hoặc trợ giúp người khuyết tật tạo và sử dụng bản sao định dạng dễ tiếp cận khi họ có quyền tiếp cận hợp pháp tác phẩm;

(ii) Tổ chức được Chính phủ cho phép có quyền tạo bản sao ở định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm, nhận bản sao ở định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm từ tổ chức tương ứng thuộc thành viên của Hiệp ước Marrakesh và cung cấp những bản sao này cho người khuyết tật dưới mọi hình thức khi đáp ứng các điều kiện sau: Tổ chức quy định tại điểm này có quyền tiếp cận hợp pháp đối với  tác phẩm và việc sửa đổi tác phẩm chỉ trong phạm vi cần thiết cho người khuyết tật có thể tiếp cận tác phẩm;

(iii) Tổ chức được Chính phủ cho phép có quyền phân phối hoặc phổ biến các bản sao ở định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm tới tổ chức tương ứng thuộc thành viên của Hiệp ước Marrakesh mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu quyền;

(iv) Tổ chức được Chính phủ cho phép có quyền phân phối hoặc phổ biến các bản sao ở định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm tới người khuyết tật thuộc thành viên của Hiệp ước Marrakesh mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu với điều kiện là trước khi phổ biến hoặc phân phối, tổ chức này phải áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo các bản sao ở định dạng dễ tiếp cận này không được sử dụng cho bất cứ đối tượng nào khác ngoài người khuyết tật;

(v) Người khuyết tật hoặc người trông nom, chăm sóc cho người khuyết tật hoặc một tổ chức được Chính phủ cho phép tạo bản sao tác phẩm ở định dạng dễ tiếp cận có quyền nhập khẩu bản sao ở định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm vì lợi ích của người khuyết tật mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu quyền;

k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng;

l) Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng những bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin. Quy định này không áp dụng đối với việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm nêu trên;

m) Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó.

2. Việc sao chép quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính.

 

Điều 32. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền liên quan

1. Trong những trường hợp dưới đây, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát song đã công bố có thể được sử dụng mà không cần xin phép, không phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc sử dụng đó không mâu thuẩn với việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát song, không ảnh hưởng một cách bất hợp lý tới các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền liên quan và phải thông tin về cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, trừ trường hợp bắt buộc do cách thức sử dụng cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đó:

a0) Ghi âm, ghi hình trực tiếp một phần cuộc biểu diễn để giảng dạy không nhằm mục đích thương mại hoặc để đưa tin thời sự;

a) Tự sao chép hoặc hỗ trợ người khuyết tật sao chép một bản một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;

b) Sao chép hợp lý một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát song để giảng dạy trực tiếp của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng này đã được công bố để giảng dạy;

c) Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích đưa tin thời sự;

d) Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng.

2. Chính phủ quy định cụ thể khoản 1 Điều này.

 

 

 

 

 

 

 

 

Điều 26. Giới hạn quyền tác giả[6]

1. Trong những trường hợp dưới đây, tác phẩm đã công bố có thể được khai thác, sử dụng mà không cần xin phép chủ sở hữu quyền tác giả nhưng phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc khai thác, sử dụng đó không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm, không ảnh hưởng một các bất hợp ký tới các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả và phải thông tin về tên tác giả, nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm trừ trường hợp bắt buộc do các thức sử dụng tác phẩm:

(a) Tổ chức phát sóng khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào thì không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Tổ chức phát sóng khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào thì không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.

(b) Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm được định hình trên bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong hoạt động kinh doanh, thương mại thì không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền theo thảo thuận cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

2. Tổ chức, cá nhân Việt Nam hưởng ưu đãi dành cho các nước đang phát triển đối với quyền dịch các tác phẩm từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt và quyền sao chép để giảng dạy, nghiên cứu không nhằm mục đích thương mại thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

3. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố của tổ chức, cá nhân Việt Nam nhưng không thể tìm kiếm được hoặc không xác định được chủ sở hữu quyền tác giả thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

4. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.

Điều 33. Giới hạn quyền liên quan[7]

1. Trong những trường hợp dưới dây, bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại có thể được khai thác, sử dụng mà không cần xin phép chủ sở hữu quyền liên quan, nhưng phải trả tiền bản quyền với diều kiện việc khai thác, sử dụng đó không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường bản ghi âm, ghi hình, không ảnh hưởng một cách bất hợp lý tới các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền liên quan và phải thông tin về cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, trừ trường hợp bắt buộc do cách thức sử dụng cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình chương trình phát sóng đó;

a) Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền theo thỏa thuận cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng

Theo quy định của Chính phủ;

b) Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền theo thỏa thuận cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

2. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố của tổ chức, cá nhân Việt Nam nhưng không thể tìm kiếm được hoặc không xác định được chủ sở hữu quyền liên quan thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

 

 

 

 

 

 

Bross & Partners, một công ty sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất (Tier 1) năm 2021 bởi Tạp chí Legal 500 Asia Pacific, có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ bao gồm nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế, giống cây trồng ở Việt Nam và nước ngoài.

 

Vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; mobile: 0903 287 057; Zalo: +84903287057; Skype: vinh.bross; Wechat: Vinhbross2603.

 

 



[1] Xem thêm bài viết “Phép thử ba bước” – một quy tắc pháp lý quan trọng bị lãng quên khi xác định hành vi sử dụng/làm bản sao tác phẩm có được coi là “sử dụng hợp lý” hoặc là hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan ở Việt Nam”: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/%E2%80%9CPhep-thu-ba-buoc%E2%80%9D--mot-quy-tac-phap-ly-quan-trong-bi-lang-quen-khi-xac-dinh-hanh-vi-su-dunglam-ban-sao-tac-pham-co-duoc-coi-la-%E2%80%9Csu-dung-hop-ly%E2%80%9D-hoac-la-hanh-vi-xam-pham-quyen-tac-gia-quyen-lien-quan-o-Viet-Nam-1412

[2] Tên gọi của Điều 25 Luật SHTT: “các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

Tên gọi của Điều 26 Luật SHTT: “các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

[3] Tên gọi của Điều 32 Luật SHTT: “Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

Tên gọi của Điều 33 Luật SHTT: “Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

[4] Xem thêm “Bross & Cộng sự đóng góp ý kiến cho Dự thảo Luật SHTT sửa đổi liên quan đến 2 cặp điều khoản giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quanở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Bross--Cong-su-dong-gop-y-kien-cho-Du-thao-Luat-SHTT-sua-doi--lien-quan-den-2-cap-dieu-khoan-gioi-han-va-ngoai-le-khong-xam-pham-quyen-tac-gia-quyen-lien-quan

[5] Tương tự như cách bố trí ở Dự Thảo và Luật SHTT hiện hành, trước đây phép thử ba bước được bố trí gộp bước 2 và bước 3 vào Điều 760 Bộ luật dân sự năm 1995 (bước 1 được để ở Điều 761 Bộ luật dân sự năm 1995). Xem thêm bình luận của chúng tôi về sai lầm của Tòa phúc thẩm trong bài viết Trích dẫn toàn bộ tác phẩm của người khác không thể được xem là “sử dụng hợp lý” và cùng nhìn lại sai lầm của Tòa phúc thẩm trong vụ tranh chấp quyền tác giả giữa 2 cố học giả Kiều học nổi tiếng xảy ra trước thời điểm Việt Nam tham gia Công ước Berne” ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Trich-dan-toan-bo-tac-pham-cua-nguoi-khac-khong-the-duoc-xem-la-%E2%80%9Csu-dung-hop-ly%E2%80%9D-va-cung-nhin-lai-sai-lam-cua-Toa-phuc-tham-trong-vu-tranh-chap-quyen-tac-gia-giua-2-co-hoc-gia-Kieu-hoc-noi-tieng-xay-ra-truoc-thoi-diem-Viet-Nam-tham-gia-Cong-uoc-Berne

[6] Bross & Cộng sự đề xuất sử dụng từ “Hạn chế” còn Ban Soạn Thảo dùng từ “Giới hạn”. Từ “Hạn chế” và “Giới hạn” thực chất là có ý nghĩa pháp lý tương đương nhau.

[7] Tương tự như footnote 6

 

Bookmark and Share
Relatednews
Khi nào không thể hoặc không nên đăng ký thương hiệu ra nước ngoài theo Hệ thống Madrid?
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go