Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
PHẢN BIỆN DỰ THẢO 5 SỬA ĐỔI LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI ỦY BAN PHÁP LUẬT QUỐC HỘI (PHẦN 4)
(Ngày đăng: 2021-09-05)

PHẢN BIỆN DỰ THẢO 5 SỬA ĐỔI

LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI ỦY BAN PHÁP LUẬT QUỐC HỘI (PHẦN 4)

 

Email: vinh@bross.vn

 

Luật sư Lê Quang Vinh – Bross & Partners vinh dự được mời trình bày tham luận tại Hội thảo trực tuyến sáng ngày 28/08/2021 do Ủy ban pháp luật của Quốc Hội tổ chức.[1] Đễ dễ theo dõi, chúng tôi tạm chia bài trình bày 11 nội dung thành 5 phần.

 

Phần 4/5: Xung đột tên miền và nhãn hiệu, thư phản đối và thủ tục phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu, tư cách đại diện sở hữu công nghiệp, thu hẹp phạm vi thực thi bằng biện pháp hành chính. 

 

1. Về sửa đổi điểm b khoản 5 Điều 130

 

Vấn đề tên miền là một vấn đề gây tranh cãi trong một thời gian dài giữa Bộ KHCN và Bộ TTTT do có xung đột pháp luật giữa Luật SHTT và Luật CNTT. Dự Thảo 5 chỉ thêm cụm từ “có dụng ý xấu” vào điểm d khoản 1 điều 130 theo tôi là chưa giải quyết vấn đề xung đột này một cách triệt để. Hiện nay, trên thế giới đang áp dụng 2 chính sách giải quyết tranh chấp tên miền, gồm Chính sách giải quyết tên miền thống nhất, viết tắt là UDRP (Uniform Domain-Name Dispute Resolution Policy) và Bộ quy tắc giải quyết tranh chấp tên miền .EU, viết tắt là “ADR Rules” (.EU Alternative Dispute Resolution Rules). Để có thể hủy hoặc buộc chuyển nhượng thành công tên miền, nếu sử dụng UDRP thì bên khởi kiện phải luôn cùng lúc thỏa mãn cả 3 điều kiện: (a) tên miền đăng ký trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa hoặc nhãn hiệu dịch vụ mà nguyên đơn có quyền sở hữu; và (b) chủ thể đăng ký tên miền không có quyền hoặc lợi ích hợp pháp nào liên quan đến tên miền đăng ký; và (c) tên miền đã được đăng ký và sử dụng với dụng ý xấu. Trong khi đó theo ADR thì để đảm bảo thắng kiện khi giải quyết tên miền .EU thì ADR chỉ yêu cầu nguyên đơn chứng minh 2 điều kiện (a) & (b) trong khi điều kiện (c) hoàn toàn không bắt buộc.[2]

 

Cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền mà VNNIC thiết kế cho điều 76 Luật CNTT là đi theo UDRP của WIPO và ICANN trong khi điểm d khoản 1 điều 130 không hàm chứa ngụ ý là đi theo cách tiếp cận nào: UDRP hay ADR. Chính điều này là nguyên nhân dẫn tới tranh cãi nêu trên và xung đột giữa 2 Luật SHTT và Luật CNTT.

 

Đề xuất

 

Tôi đề xuất cân nhắc thêm một trong hai phương án bổ sung liên quan đến điểm d khoản 1 điều 130:

 

Phương án 1: Luật hóa 3 điều kiện của UDRP vào điểm d khoản 1 điều 130; và

Phương án 2: Tìm cách ưu tiên chọn luật áp dụng, ví dụ có thể bổ sung khoản 2 điều 5 Luật SHTT

 

Trường hợp tên miền thuộc đối tượng của một vụ tranh chấp hoặc thuộc đối tượng của một vụ vi phạm hành chính được xác định là trùng hoặc tương tự với quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ ở Việt Nam thì các bên liên quan có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng quy định của Luật này để giải quyết.

 

2. Về sửa đổi, bổ sung điều 112 và bổ sung điều 112a

 

Dự Thảo 5 bổ sung thêm điều 112a trong khi vẫn giữ nguyên điều 112 (chỉ đề xuất sửa đổi nhỏ ở phần gạch chân) ngụ ý rằng Việt Nam sẽ vận hành cả 2 cơ chế phản đối tương tự như của Hoa Kỳ là thư phản đối (letter of protest)[3] và đơn phản đối. Có vẻ như Ban soạn thảo có ý định chuyển hóa phản đối theo điều 112 thành thư phản đối trong khi phản đối theo điều 112a sẽ trở thành thủ tục phản đối chính thức. Cụ thể hơn, thư phản đối chỉ đóng vai trò là nguồn thông tin bổ sung phục vụ cho việc thẩm định được nộp bởi bất kỳ bên thứ ba bất luận bên thứ ba có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc hay không và cơ quan có thẩm quyền không có nghĩa vụ gửi thư phản đối cho chủ đơn bị phản đối. Trong khi đó, ngược lại phản đối theo điều 112a mang tính chất là thủ tục giải quyết tranh chấp nhiều bên (inter partes dispute).[4]

 

Hiện tại thủ tục phản đối ở Việt Nam có nhiều bất cập: (a) thời hạn cho phép phản đối quá dài trong khi không có nước nào dài như ở Việt Nam; (b) cơ chế phản đối không nhất quán giữa phản đối đơn đăng ký quốc tế chỉ định Việt Nam và đơn đăng ký quốc gia nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu trí tuệ; (c) hệ thống phản đối đang bị lạm dụng; (d) không có thủ tục phản đối dựa trên nhãn hiệu nổi tiếng đúng nghĩa vì phản đối dựa trên nhãn hiệu nổi tiếng phải gắn liền với thủ tục công nhận nhãn hiệu nổi tiếng – thủ tục mà hiện nay chưa Việt Nam chưa thực hiện.[5]

 

Đề xuất

 

Ý tưởng thiết kế điều 112 và 112a của Ban Soạn Thảo là khá mới mẻ nhưng tiếc là chưa đủ rõ ràng và do đó cần được làm rõ hơn ở các khía cạnh sau:

  1. Có đúng là điều 112 sẽ trở thành cơ chế thư phản đối hay không? Và nếu đúng vậy thì cần giải thích rõ hơn về mục đích, sự khác biệt và mối quan hệ giữa điều 112 và điều 112a?
  2. Có đúng là điều 112a sẽ trở thành cơ chế phản đối chính thức hay không? Nếu có, có phải Ban Soạn Thảo có ý định xây dựng một thủ tục phản đối thực sự độc lập như các thủ tục khác như chấm dứt hiệu lực, hủy bỏ hiệu lực hoặc khiếu nại hay không? (Luật SHTT hiện tại chỉ xem phản đối là việc cho phép bên thứ 3 có ý kiến với Cục SHTT trong giai đoạn thẩm định nội dung, trong đó phản đối chỉ đóng vai trò là nguồn thông tin bổ sung phục vụ cho việc thẩm định).
  3. Hiện chưa rõ liệu Ban Soạn Thảo có ý định thiết kế điều 112a theo hướng cách tiếp cận phản đối kết thúc đóng (close-end opposition approach) như hiện tại hay đi theo cách tiếp cận phản đối kết thúc mở (open-end opposition approach) ở các quốc gia khác như Nhật, Mỹ, Trung Quốc?

 

3. Về sửa đổi khoản 2, bổ sung khoản 2a Điều 155

 

Dự Thảo 5 bổ sung khoản 2a vào khoản 2 điều 155 thực chất là chấp nhận ngoại lệ không cần chứng chỉ hành nghề đại diện SHCN, cụ thể cá nhân được phép hành nghề theo Luật luật sư là được cấp chứng chỉ hành nghề đại diện SHCN đối với 5 đối tượng SHCN gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, cạnh tranh không lành mạnh và bí mật thương mại miễn là đã tốt nghiệp khóa đào tạo pháp luật về sở hữu công nghiệp được cơ quan có thẩm quyền công nhận.

 

Theo quan điểm của chúng tôi Ban Soạn Thảo cần hết sức thận trọng xem xét kỹ lưỡng quy định này, không nên quá vội vàng “mở cửa sớm” vì một số lý do:

  1. Nghề đại diện SHCN là nghề đặc thù mà được pháp luật từ trước tới nay quy định rất chặt với hàng loạt các điều kiện về kinh nghiệm, đào tạo chuyên sâu riêng 6 tháng, thi vượt quá 5 môn không môn nào dưới 5 điểm mới có thể giành được chứng chỉ. Nay khoản 2a nếu được Quốc Hội thông qua có nghĩa là loại bỏ toàn bộ quy trình kiểm soát điều kiện hành nghề một cách quá dễ dàng mà chưa có luận cứ nào giải thích lý do hợp lý tại sao có sự thay đổi bước ngoặc như vậy
  2. Việc miễn trừ giấy phép hành nghề với luật sư ngay lập tức cho thấy tính không hợp lý và rất thiếu công bằng giữa nhóm chủ thể là luật sư thì được miễn điều kiện đã đạt yêu cầu tại kỳ kiểm tra về nghiệp vụ đại diện sở hữu công nghiệp do cơ quan có thẩm quyền tổ chức theo điểm e khoản 1 điều 155 trong khi nhóm chủ thể không phải là luật sư buộc phải đã đạt kỳ kiểm tra này
  3. Việc miễn trừ giấy phép hành nghề với luật sư cũng đồng thời sẽ tạo nên một chính sách không hợp lý, thiếu công bằng giữa những người vất vả nhiều năm mới được phép hành nghề SHCN với những người có thể vừa có thẻ hành nghề luật sư đã được làm đại diện ngay
  4. Hành nghề luật sư mang bản chất khác biệt với hành nghề SHCN vì tính chất đặc thù của quyền SHTT do vậy bổ sung khoản 2a ở điều 155 là rất không hợp lý. Hơn nữa, thực tế cho thấy, chất lượng luật sư ở Việt Nam là khá thấp trong khi mở cửa quá sớm mà chưa có sự thẩm định kỹ lưỡng là điều cần hết sức thận trọng
  5. Theo điều 28 Luật luật sư, luật sư được phép tư vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực, nghĩa là bao gồm cả pháp luật về sở hữu công nghiệp, quyền tác giả & quyền liên quan và quyền đối với giống cây trồng. Họ cũng hiển nhiên có quyền khác là đại diện cho khách hàng tham gia tranh tụng vào lĩnh vực SHTT nói chung và SHCN nói riêng tại tòa án

 

Đề xuất

 

Vì vậy, chúng tôi đề xuất sửa đổi khoản 2a điều 155 của Dự Thảo 5 thành 2 phương án để lựa chọn.

 

Phương án 1: Lược bớt 2 đối tượng nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý để giữ nguyên đề xuất của Dự Thảo 5

 

2a. Công dân Việt Nam là luật sư được phép hành nghề theo Luật Luật sư thì được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong lĩnh vực tên thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh, bí mật kinh doanh nếu đã tốt nghiệp khóa đào tạo pháp luật về sở hữu công nghiệp được cơ quan có thẩm quyền công nhận

 

Phương án 2: Giữ nguyên phạm vi đại diện sở hữu công nghiệp như Dự Thảo 5 đề xuất nhưng cần thỏa mãn điều kiện “đã đạt yêu cầu tại kỳ kiểm tra về nghiệp vụ đại diện sở hữu công nghiệp do cơ quan có thẩm quyền tổ chức theo điểm e khoản 1 điều 155” tương tự như đang áp đặt đối với nhóm chủ thể không phải luật sư phải đáp ứng nêu ở sửa đổi khoản 2 điều 155

 

2a. Công dân Việt Nam là luật sư được phép hành nghề theo Luật Luật sư thì được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong lĩnh vực nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh, bí mật kinh doanh nếu đã đạt yêu cầu tại kỳ kiểm tra về nghiệp vụ đại diện sở hữu công nghiệp (không bao gồm môn sáng chế và kiểu dáng công nghiệp) do cơ quan có thẩm quyền tổ chức.

 

9. Về sửa đổi, bổ sung Điều 211

 

Chúng tôi kiến nghị không nên chọn Phương án 1 mà giữ nguyên Phương án 2 ở Dự Thảo 5 vì: 

 

  1. Việc thu hẹp phạm vi thực thi quyền SHTT bằng cách sửa đổi điểm a khoản 1 điều 211 theo PA 1 của Dự thảo không những vội vàng mà còn tạo ra mâu thuẫn, thiếu nhất quán/đồng bộ với các đạo luật khác. Chẳng hạn hành vi xâm phạm quyền SHTT là đối tượng của chế tài xử phạt vi phạm hành chính hiện tại không bị bất kỳ hạn chế nào về đối tượng quyền SHTT nào theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính theo các điều 6(1)(a), 24(3), 32, 72. Nói cách khác, nếu chọn PA1 thì cần phải sửa đổi Luật XLVPHC
  2. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ là một trong những nội dung quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ mà Quốc hội giao cho Chính Phủ và các bộ ngành có liên quan tổ chức triển khai, trong đó gồm có hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về sở hữu trí tuệ, xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ. Do vậy, chọn PA1 nghĩa là làm thay đổi cơ bản chức năng quản lý nhà nước của các Bộ ngành mà có thể dẫn đến nhiều bất cập trong đó có thể bao gồm cả việc đưa thêm đề xuất sửa đổi Điều 10 Luật SHTT hiện hành.
  3. Chọn PA1 là không thực sự hợp lý trong điều kiện thực tiễn thực thi quyền SHTT bằng biện pháp dân sự/tư pháp của Việt Nam còn rất yếu và Việt Nam cũng chưa có tòa án chuyên trách về SHTT. Tính chất bảo hộ quyền SHTT vốn được quy định ở Hiến pháp và các đạo luật liên quan trở nên mong manh hơn và ít nhiều suy giảm giá trị vì chủ thể quyền mất quyền sử dụng biện pháp hành chính đối với hàng loạt các đối tượng quyền SHTT gồm tên thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế vì họ không còn quyền chọn lựa biện pháp thay thế. Nếu vẫn quyết tâm chọn PA1 thì cũng nên có ý kiến của đại diện đa số các chủ thể quyền của cả Việt Nam và nước ngoài thông qua survey.

 

Theo một phương án khác vì mục đích dịch chuyển các tranh chấp quyền SHTT về hệ thống tòa án đúng với bản chất dân sự của nó, chúng tôi cho rằng Phương án 1 có thể được chấp nhận nếu được sửa đổi thành có điều kiện, cụ thể là quy định rõ thời điểm có hiệu lực riêng đối điểm a khoản 1 điều 211 (chẳng hạn sau 5 năm tính từ thời điểm Luật SHTT sửa đổi lần 3 có hiệu lực).

 

10. Về sửa đổi, bổ sung Điều 25, Điều 25a, Điều 26, Điều 32 và Điều 33

 

Giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (exception and limitation) là một nguyên tắc pháp lý được quy định ở điều 9(2) Công ước Berne và điều 13 TRIPs nhằm 2 mục đích là giới hạn phạm vi thực thi các quyền độc quyền của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan và bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng. Vì là nguyên tắc chung cho nên giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả đều có mặt ở các FTA mà Việt Nam ký kết gần đây gồm Điều 12.14 EVFTA, Điều 18.65 CPTPP, Điều 11.18 RCEP. Tương tự như vậy, giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả cũng có mặt ở 2 Hiệp ước quốc tế quan trọng khác về quyền tác giả, cụ thể là Điều 10 WCT (Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả) và Điều 16 WPPT (Hiệp ước của WIPO về cuộc biểu diễn và bản ghi âm) mà Việt Nam bắt buộc phải gia nhập cả 2 Hiệp ước này trong vòng 3 năm hoặc trước ngày 1/8/2023.

 

Giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả được thiết kế dưới dạng phép thử ba bước (three-step test) hay còn gọi là phép kiểm tra ba bước được đưa vào thành điều 9(2) của lần sửa đổi Công ước Berne vào năm 1967. Phép thử 3 bước thực chất là một quy tắc mang tính thỏa hiệp giữa các nhà soạn thảo nhằm giới hạn hoặc thu hẹp phạm vi độc quyền của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với hành vi độc quyền làm bản sao tác phẩm, từ đó giúp làm cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả với lợi ích của công chúng và xã hội. Điều 9(2) Công ước Berne quy định “Luật pháp của các quốc gia thành viên thuộc Liên hiệp có thể cho phép làm bản sao của tác phẩm được bảo hộ trong một số trường hợp đặc biệt với điều kiện là việc sao chép này không xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả”.

 

Diễn giải theo một cách khác chúng ta thấy rằng nội hàm của điều 9(2) khẳng định việc sao chép tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền độc quyền sao chép của tác giả nếu hành vi đó cùng lúc thỏa mãn 3 bước hoặc 3 điều kiện của phép thử sau:

  1. Việc sao chép đó chỉ được phép trong các trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà được quy định bởi pháp luật quốc gia; và
  2. Việc sao chép đó không xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm; và
  3. Việc sao chép đó không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.[6]

 

Cần lưu ý rằng Việt Nam đã đưa phép thử 3 bước này vào pháp luật quốc gia của mình từ khá sớm, thậm chí còn trước khi Việt Nam ban hành Luật SHTT đến cả 10 năm. Cụ thể, phép thử 3 bước có thể tìm thấy tại điều 760 và 761 Bộ luật dân sự năm 1995. Luật SHTT năm 2005 sửa đổi 2 lần vào năm 2009 và 2019 nội luật hóa nguyên tắc pháp lý nêu trên vào 2 cặp điều luật gồm điều 25 - điều 26 liên quan đến quyền tác giả[7] và điều 32 – điều 33 liên quan đến quyền liên quan, trong đó điều 25 và điều 32 mang tính chất là ngoại lệ không xâm phạm và điều 26 và điều 33 mang tính chất là giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan[8]. Dự Thảo 5 sửa đổi 2 cặp điều khoản trên theo hướng mở rộng rất nhiều bước 1 của phép thử ba bước và đồng thời bổ sung thêm Điều 25a - ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả cho người khuyết tật.

 

Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng toàn bộ các điều luật được sửa đổi, bổ sung ở Dự Thảo 5 đều vi phạm nghĩa vụ tuân thủ các FTA và các Hiệp định quốc tế nêu trên khi xây dựng các quy định về giới hạn và ngoại lệ xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan vì Ban Soạn Thảo đã loại bỏ bước 2 và bước 3 của phép thử ba bước vốn đã từng có mặt trong các Dự Thảo trước mà Ban Soạn Thảo đã tiếp thu góp ý về cách xây dựng phép thử ba bước của chúng tôi

 

Vì các lẽ trên, chúng tôi khuyến nghị sửa đổi khoản 1 của các Điều 25, Điều 25a, Điều 26, Điều 32 và Điều 33 như sau:

Sửa đổi khoản 1 Điều 25. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả

1. Trong những trường hợp dưới đây, tác phẩm đã công bố có thể được khai thác, sử dụng mà không cần xin phép, không phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc khai thác, sử dụng đó không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, và không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm:

 

Bổ sung lời văn cho Điều 25a. Ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật[9]

Trong những trường hợp dưới đây, tác phẩm đã công bố có thể được khai thác, sử dụng mà không cần xin phép, không phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc khai thác, sử dụng đó không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, và không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả:

 

Sửa đổi khoản 1 Điều 26. Giới hạn quyền tác giả

1. Trong những trường hợp dưới đây, tác phẩm đã công bố có thể được khai thác, sử dụng mà không cần xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc khai thác, sử dụng đó không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, và không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm:

 

Sửa đổi khoản 1 Điều 32. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền liên quan

1. Trong những trường hợp dưới đây, đối tượng của quyền liên quan đã công bố có thể được khai thác mà không cần xin phép, không phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc khai thác đó không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường đối tượng của quyền liên quan, và không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về đối tượng của quyền liên quan:

 

Sửa đổi khoản 1 Điều 33. Giới hạn quyền liên quan

1. Trong những trường hợp dưới đây, đối tượng của quyền liên quan đã công bố có thể được khai thác, sử dụng mà không cần xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền với điều kiện việc khai thác, sử dụng đó không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường đối tượng của quyền liên quan, và không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan; phải thông tin về đối tượng của quyền liên quan:

 

11. Về sửa đổi, bổ sung Điều 28 và Điều 35

 

Dự Thảo 5 bổ sung khoản 3 Điều 28 “Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ được quy định tại Điều 25, Điều 25a và Điều 26 của Luật này” và khoản 4 Điều 35 “Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ được quy định tại Điều 32 và Điều 33 của Luật này” là vừa thừa và vừa không chính xác vì hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan thực chất là hành vi xâm phạm bất kỳ quyền nhân thân hoặc quyền tài sản nào ở điều 19 và điều 20.

 

Trường hợp bên bị nghi ngờ xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan chứng minh được hành vi khai thác, sử dụng của minh tuân thủ đầy đủ ba bước của phép thử ba bước nằm ở quy định về “ngoại lệ” ở khoản 1 các Điều 25, 25a và Điều 32 thì anh ta không phải xin phép và cũng không phải trả tiền bản quyền.

 

Trường hợp bên bị nghi ngờ xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan chứng minh được hành vi khai thác, sử dụng của minh tuân thủ đầy đủ ba bước của phép thử ba bước nằm ở quy định về “giới hạn” được quy định ở khoản 1 các Điều 26 và Điều 32 thì anh ta không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền.

 

Cả hai tình huống rơi vào “ngoại lệ” và “giới hạn” nêu trên đều không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Nói cách khác, hành vi của bên bị nghi ngờ xâm phạm là hành vi khai thác, sử dụng hợp pháp (hay còn gọi là “sử dụng hợp lý” hoặc fair use).

 

Ngược lại, hai tình huống trên không được xem là rơi vào “ngoại lệ” và “giới hạn” nếu chủ thể quyền chứng minh được bên nghi ngờ xâm phạm không thỏa mãn một trong 3 điều kiện của phép thử ba bước, khi đó hành vi này phải bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 28 hoặc khoản 1, 2, 3 Điều 35.

 

Xem Phần 5/5 ở đây: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/PHAN-BIEN-DU-THAO-5-SUA-DOI--LUAT-SO-HUU-TRI-TUE-TAI-UY-BAN-PHAP-LUAT-QUOC-HOI-PHAN-5

Bross & Partners, một công ty sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất (Tier 1) năm 2021 bởi Tạp chí Legal 500 Asia Pacific, có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ bao gồm nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế, giống cây trồng ở Việt Nam và nước ngoài.

 

Vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; mobile: 0903 287 057; Zalo: +84903287057; Skype: vinh.bross; Wechat: Vinhbross2603.

 

 


[1] Sáng ngày 28/08/2021, Ông Hoàng Thanh Tùng - Ủy viên TW Đảng - Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội chủ trì và điểu khiển Hội thảo trực tuyến về góp ý và phản biện Dự Thảo 5 sửa đổi Luật SHTT lần đầu được thẩm tra bởi Ủy ban pháp luật của Quốc Hội và Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Hội thảo có sự tham gia của đại biểu Quốc Hội đại diện cho Ủy ban Tư pháp, Ủy ban KHCN và Môi trường, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính Ngân sách, Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Văn hóa Giáo dục; đại diện của Văn phòng Chính phủ, Bộ KHCN, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, Bộ NNPTNT, Cục SHTT, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan giám định sở hữu công nghiệp (VIPRI). Xem thêm: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=58283

[2] Để thắng một vụ việc theo thủ tục UDRP, bên khởi kiện/nguyên đơn phải luôn cùng lúc thỏa mãn cả 3 điều kiện(a) tên miền đăng ký trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa hoặc nhãn hiệu dịch vụ mà nguyên đơn có quyền sở hữu; và (b) chủ thể đăng ký tên miền không có quyền hoặc lợi ích hợp pháp liên quan đến tên miền đăng ký; và (c) tên miền đã được đăng ký và sử dụng với dụng ý xấu. Trong khi đó theo ADR thì để đảm bảo thắng kiện khi giải quyết tên miền .COM thì ADR chỉ yêu cầu nguyên đơn chứng minh 2 điều kiện (a) & (b) trong khi điều kiện (c) hoàn toàn không bắt buộc. Xem thêm:

  1. http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/De-xuat-moi-ve-giai-quyet-xung-dot-giua-ten-mien-voi-quyen-so-huu--tri-tue-o-Dieu-130-du-thao-Luat-sua-doi-Luat-SHTT-lieu-co-kha-thi
  2. http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Vai-net-ve-lich-su-ra-doi-cua-Chinh-Sach-Giai-Quyet-Tranh-Chap-Ten-Mien-Thong-Nhat-UDRP-cung-voi-uu-diem-va-nhuoc-diem-cua-UDRP
  3. http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/TIM-HIEU-NHANH-VE-TRANH-CHAP-TEN-MIEN-VA--BIEN-PHAP-PHAP-LY-GIUP-DOI-LAI-TEN-MIEN-QUOC-TE--1487
  4. http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/4-ca%CC%81ch--bie%CC%A3n-pha%CC%81p-gia%CC%80nh-la%CC%A3i-ten-mie%CC%80n-quo%CC%81c-gia-vn-theo-pha%CC%81p-lua%CC%A3t-Vie%CC%A3t-Nam-hie%CC%A3n-ha%CC%80nh-va%CC%80-nhuo%CC%A3c-die%CC%89m-cu%CC%89a-chu%CC%81ng-1513

[3] Xem thêm Thư phản đối nhãn hiệu (Letter of Protest of Trademark) ở Mỹ khác gì với đơn phản đối nhãn hiệu (Trademark Opposition) ở Việt Nam?ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Thu-phan-doi-nhan-hieu-Letter-of-Protest-of-Trademark--o-My-khac-gi-voi-don-phan-doi-nhan-hieu-Trademark-Opposition-o-Viet-Nam

[4] Xem thêm Thủ tục, trình tự và căn cứ pháp lý của đơn phản đối cấp đăng ký nhãn hiệu (thương hiệu) ở Việt Nam ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Thu-tuc-trinh-tu-va-can-cu-phap-ly-cua-don-phan-doi-cap--dang-ky-nhan-hieu-thuong-hieu-o-Viet-Nam

[5] Xem thêm “4 bất cập của cơ chế phản đối cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam” ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/4-bat-cap-cua-co-che-phan-doi-cap-van-bang-bao-ho-nhan-hieu-o-Viet-Nam

[6] Để xác định một hành vi khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố có được xem là ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả (hay còn gọi là “sử dụng hợp lý”) hay không, bắt buộc phải áp dụng nguyên tắc pháp lý rất quan trọng là “phép thử ba bước” (three-step test) có nguồn gốc ở điều 9(2) Công ước Berne. Trong vụ tranh chấp quyền tác giả xảy ra giữa năm 2001 và 2003 giữa hai nhà nghiên cứu Kiều học nổi tiếng là ông Nguyễn Quang Tuân và ông Đào Thái Tôn, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao lúc đó đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi bỏ quên mối liên hệ giữa điều 760 và 761 Bộ luật dân sự năm 1995, nghĩa là đáng lẽ tòa phải cùng lúc và đồng thời xem xét cả 2 điều luật này vì các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả ở điều 761 chỉ được áp dụng khi và chỉ khi nó “không xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm” của nguyên đơn và cũng “không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp” của nguyên đơn được quy định ở điều 760. Tham khảo thêm: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Trich-dan-toan-bo-tac-pham-cua-nguoi-khac-khong-the-duoc-xem-la-%E2%80%9Csu-dung-hop-ly%E2%80%9D-va-cung-nhin-lai-sai-lam-cua-Toa-phuc-tham-trong-vu-tranh-chap-quyen-tac-gia-giua-2-co-hoc-gia-Kieu-hoc-noi-tieng-xay-ra-truoc-thoi-diem-Viet-Nam-tham-gia-Cong-uoc-Berne

[7] Tên gọi của Điều 25: “các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

Tên gọi của Điều 26: “các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

[8] Tên gọi của Điều 32 Luật SHTT: “Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

Tên gọi của Điều 33 Luật SHTT: “Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

[9] Điều 25a được bố trí thêm có lẽ là để chuẩn bị cho việc Việt Nam sắp tham gia Hiệp ước Marrakesh cho người không có khả năng đọc chữ in ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cần nhớ rằng ở phần mở đầu và footnote của Hiệp ước này, phép thử ba bước trong việc xác lập ngoại lệ và giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan đều được ghi nhận. Xem thêm ở link: https://worldblindunion.org/wipo-marrakesh-treaty-2013-full-text/

 

Bookmark and Share
Relatednews
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal
So sánh quy trình xét nghiệm nhãn hiệu ở Việt Nam và Trung Quốc

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go