Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Rủi ro huỷ án sở hữu trí tuệ gia tăng
(Ngày đăng: 2025-11-03)

Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Rủi ro huỷ án sở hữu trí tuệ gia tăng

 

Luật sư Lê Quang Vinh Bross & Partners

Email: vinh@bross.vn

 

Trong các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại có đối tượng tranh chấp là quyền sở hữu trí tuệ[1], Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng thực hiện quyền kiểm sát, giám sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và đương sự để đảm bảo tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn kiểm sát án SHTT bởi VKS theo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Viện KSNDTC) bị xem là còn nhiều hạn chế do án SHTT là loại án phức tạp, thu thập và đánh giá chứng cứ khó khăn. Bross & Partners tóm tắt nhanh tổng kết các thiếu sót từ kiểm sát hoạt động xét xử dẫn tới nhiều án SHTT bị sửa hoặc huỷ theo Thông báo 58/VKSTC.

 

1. Đánh giá sai bản chất hành vi xâm phạm

 

Vi phạm thường gặp là khi cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm không xác định đúng bản chất hành vi xâm phạm quyền SHTT chẳng hạn như trong vụ tranh chấp đòi lại tên miền "tictours.vn", Giám đốc một Trung tâm du lịch trực thuộc Công ty K (Nguyên đơn) đã tự ý trả lại tên miền (vẫn còn thời hạn sử dụng), sau đó ngay lập tức đăng ký tên miền đó cho Công ty L (Bị đơn) do chính ông ta làm Giám đốc.

 

Viện KSNDTC nhận định rằng Bị đơn có hành vi "dùng thủ đoạn để chiếm hữu trái pháp luật" và "gây nhầm lẫn cho khách hàng" vì việc Bị đơn tự ý trả lại tên miền “tictours.vn nhưng không báo cáo Tổng giám đốc của Nguyên đơn là vi phạm quy chế hoạt động của Trung tâm du lịch trực thuộc Nguyên đơn. Do đó, việc cả tòa án cấp sơ thẩm (Bản án số 02/2015/KDTM-ST) và phúc thẩm (Bản án số 10/2016/KDTM-PT) đều bác yêu cầu khởi kiện của Công ty K là không đúng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn nên hệ quả là Tòa án cấp giám đốc thẩm (Quyết định số 11/2019/KDTM-GĐT) phải hủy toàn bộ các bản án để giải quyết lại. Bài học cốt lõi ở đây là cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét toàn diện mục đích, ý chí hành vi và hậu quả thực tế của hành vi của Bị đơn gây ra.

 

2. Chưa đánh giá tính hợp pháp của Kết luận giám định do đương sự tự yêu cầu

 

Hồ sơ vụ án xâm phạm quyền độc quyền sáng chế giữa Công ty MSD (Nguyên đơn) kiện Công ty ĐVP (Bị đơn) cho thấy tháng 9/2014, Công ty MSD phát hiện các sản phẩm thuốc Zlatko-100 và Zlatko-50 của Bị đơn có chứa hợp chất chính là Sitagliptin phosphat monohydrat, thuộc phạm vi bảo hộ Bằng Độc quyền sáng chế (ĐQSC) số 7037 của Nguyên đơn. Nguyên đơn đã yêu cầu giám định và ngày 22/10/2014, Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ Việt Nam (VIPRI) có Kết luận giám định số SC008-14YC/KLGD cho thấy sản phẩm thuốc của Công ty ĐVP trùng lặp với Bằng ĐQSC số 7037. Đồng thời, Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ cũng kết luận Bị đơn đã xâm phạm quyền đối với Bằng ĐQSC số 7037. Do đó, Nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu Bị đơn chấm dứt hành vi xâm phạm, bồi thường thiệt hại, thu hồi thuốc và công khai xin lỗi.

 

Viện KSNDTC thấy rằng Tòa cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào Kết luận giám định do nguyên đơn tự yêu cầu để xác định hành vi xâm phạm sáng chế là thiếu cơ sở, không khách quan vì Kết luận giám định này có nhiều vi phạm như:

·        Nguyên đơn yêu cầu giám định nhưng không cung cấp mẫu giám định (vi phạm Nghị định 105/2006/NĐ-CP),

·        Kết luận giám định không giám định được tính trùng lắp hoặc tương đương giữa sả phẩm của Bị đơn và điểm yêu cầu bảo hộ của Bằng ĐQSC số 7037 do không thu được mẫu vật giám định.

  • Tòa cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu giám định lại của Bị đơn (vi phạm Điều 92(2) và Điều 102 BLTTDS 2015) .

 

3. Vi phạm của Toà án tuyên án không thể thi hành được và các lỗi tố tụng khác

 

Trong nhiều vụ án tranh chấp quyền SHTT khác, Nguyên đơn thường yêu cầu Tòa án buộc bị đơn thu hồi và tiêu hủy toàn bộ sản phẩm vi phạm, chẳn hạn như trong vụ Công ty MSD (Nguyên đơn) kiện Công ty ĐVP (Bị đơn) nêu trên, Toà cấp sơ thẩm tuyên “buộc Bị đơn Công ty ĐVP thu hồi và tiêu huỷ tất cả sản phẩm thuốc Zlatko…” . Tuy nhiên, nhiều sản phẩm đã được vận chuyển, sử dụng, tiêu thụ nhiều nơi, không còn khả năng thu hồi được nên việc Toà án chấp nhận yêu cầu này là "không thể thi hành án được" và đây chính là một trong những lý do khiến bản án phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm để giải quyết lại.

 

Trong một số vụ án SHTT khác, việc Toà án từ chối yêu cầu của Bị đơn (công ty nhập khẩu dược phẩm) yêu cầu đưa Công ty nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam (nhà sản xuất nước ngoài của dược phẩm mà Bị đơn nhập khẩu) vào tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ vì lý do Nguyên đơn chỉ kiện Bị đơn, không kiện nhà sản xuất nước ngoài là vi phạm Điều 68 BLTTDS 2015.

 

Bài học kinh nghiệm

 

Viện KSNDTC đánh giá rằng các vụ án SHTT ngày càng phức tạp, đòi hỏi Kiểm sát viên và Tòa án phải chú ý thời điểm xảy ra tranh chấp và áp dụng chính xác các quy định pháp luật như Điều 464 BLTTDS 2015 về quan hệ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, pháp luật chuyên ngành như Luật SHTT, Nghị định 65/2023/NĐ-CP, Nghị định 17/2023/NĐ-CP.

 

Đối với Kết luận giám định, Viện KSNDTC cho rằng cần phải kiểm sát chặt chẽ việc đánh giá tính hợp pháp, quy trình giám định, tính liên quan và đầy đủ của Kết luận giám định căn cứ vào Luật giám định tư pháp về giám định tư pháp, căn cứ vào pháp luật về giám định sở hữu công nghiệp và quyền tác giả, quyền liên quan gồm Luật SHTT, Nghị định 105/2006 (nay là Nghị định 65/2023), Nghị định 17/2023, Thông tư 02/2019/TT-BVHTTDL và Thông tư 03/2021/TT-BVHTTDL. Trường hợp vụ án chưa có Kết luận giám định thì cần xem xét liệu đã có đủ cơ sở để giải quyết vụ án hay chưa.

 

Cuối cùng, Viện KSNDTC lưu ý rằng nhiều vụ án có đối tượng tranh chấp là đối tượng không được bảo hộ nên không bị xem là xâm phạm quyền SHTT. Ví dụ: tin tức thời sự thuần tuý đưa tin không có tính sáng tạo, hoặc các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nếu bản chất hành vi đó là trích dẫn hợp lý hoặc tự sao chép một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại theo Điều 32 Luật SHTT.

 

Bross & Partners – công ty luật sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất bởi Legal 500 Asia Pacific – có nhiều kinh nghiệm tranh tụng SHTT và thực thi quyền SHTT xuyên biên giới. Vui lòng liên hệ:
LinkedIn | Email: vinh@bross.vn | Di động: +84 903 287 057
Zalo: +84903287057 | Microsoft Teams:
vinh@bross.vn

 



[1] Xem thêm “3 vấn đề trọng tâm khi khởi kiện và tranh tụng trong vụ án dân sự liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ tại tòa án Việt Nam” ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/3-van-de-trong-tam-khi-khoi-kien-va-tranh-tung-trong-vu-an--dan-su-lien-quan-den-quyen-so-huu-tri-tue-tai-toa-an-Viet-Nam

 

Bookmark and Share
Relatednews
Vietnam Supreme People’s Procuracy: Rising Risk of Intellectual Property Judgments Being Overturned
Đại chiến pháp lý 9 tỷ USD Oracle v. Google, ranh giới xâm phạm phần mềm và bài học cho doanh nghiệp phần mềm Việt
Thẩm quyền xét xử chuyên biệt của Toà sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Strengthening Intellectual Property Protection: A Key Driver for Private Sector Innovation in Vietnam
Vụ Kiện NYT v. OpenAI & Microsoft: Đại chiến pháp lý giữa New York Times và Open AI trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo
Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ: Động lực trọng yếu thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân đổi mới sáng tạo
Không phải ai chiếm hữu tên miền cũng là kẻ xấu: Bản án của Tòa án Việt Nam và Quyết định của WIPO Arbitration Center giúp thay đổi góc nhìn về cybersquatting tại Việt Nam
VIỆT NAM LẦN ĐẦU SẼ THÀNH LẬP 2 TÒA ÁN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Mất tên miền quốc tế và biện pháp đòi lại nó bằng khởi kiện UDRP chỉ trong 2 tháng
Xâm phạm nhãn hiệu trên vũ trụ ảo nhìn từ vụ Hermes vs. Mason Rothschild ở tòa án Hoa Kỳ

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.