Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
(Phần 4/4) Tìm hiểu nhanh bức tranh toàn cảnh pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam dưới dạng hỏi đáp
(Ngày đăng: 2019-05-06)

Email: vinh@bross.vn

 

24. Tòa án có tự mình thu thập chứng cứ không? Chứng cứ được tòa án đánh giá như thế nào? Các thủ tục đối chất, bộc lộ và công khai chứng cứ được quy định như thế nào?

 

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, đương sự có nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho tòa án cũng như có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ. Tòa án chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong một số trường hợp và theo quy định của pháp luật chẳng hạn như lấy lời khai, trưng cầu giám định, thẩm định tại chỗ, yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức khác cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án.

 

Theo điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự, tòa án có nghĩa vụ đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Tòa án cũng có nghĩa vụ phải đánh giá từng chứng cứ, tính liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, liên quan và giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Tòa án cũng có thể tự mình khi thấy cần thiết khi có mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự hoặc trên cơ sở yêu cầu của đương sự tiến hành tổ chức đối chất (cross-examination) giữa các đương sự với nhau hoặc giữa những người làm chứng với nhau. Và trong mọi trường hợp phải có biên bản ghi nhận nội dung đối chất có chữ ký của những người tham gia đối chất

 

Cơ chế thu thập, bàn giao, bảo vệ và bộc lộ chứng cứ được quy định tại các điều từ 106 đến 110 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trong đó cơ chế này quy định nguyên tắc chung là mọi chứng cứ đều phải được công bố và sử dụng công khai như nhau ngoại trừ bí mật Nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh trên cơ sở có yêu cầu bí mật bởi đương sự.

 

25. Việt Nam có thẩm phán về kỹ thuật hoặc có hiểu biết về kỹ thuật không, hoặc có chuyên gia được tòa chỉ định không? Bằng chứng chuyên gia hoặc ý kiến chuyên môn được cung cấp bởi một bên hoặc các bên được công nhận không?

 

Hiện tại Việt Nam không có đội ngũ thẩm phán về khoa học kỹ thuật, cũng như về cơ bản không có thẩm phán có kinh nghiệm chuyên biệt về khoa học kỹ thuật vì thực tế là Việt Nam chưa thành lập tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ. Sự trì hoãn quá lâu của việc thành lập tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam thường hay được lý giải bằng con số thực tế chỉ có 2% vụ kiện hoặc thậm chí ít hơn liên quan đến sở hữu trí tuệ được đưa ra tòa hàng năm.

 

Cần lưu ý là về mặt nguyên tắc chỉ ý kiến chuyên môn (ý kiến ​​chuyên gia) được thể hiện dưới dạng kết luận giám định được làm bởi một tổ chức có chức năng giám định được Nhà nước công nhận mới được tòa án chấp nhận là chứng cứ vì chỉ có kết luận giám định mới được coi là một trong 10 nguồn chứng cứ theo Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 

Mặc dù pháp luật Việt Nam có quy định về giám định sở hữu trí tuệ (như một loại hình dịch vụ bổ trợ tư pháp) với tư cách là một thiết chế pháp lý độc lập với cơ quan cấp văn bằng bảo hộ (Cục SHTT) như điều 200 Luật SHTT song cho đến nay vẫn chỉ có duy nhất 2 tổ chức giám định được cấp phép đang hoạt động là Viện khoa học sở hữu trí tuệ (VIPRI) và Trung tâm giám định quyền tác giả, quyền liên quan (thuộc Cục bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa thể thao và du lịch). Chính sự phát triển một cách chậm chạp của thị trường giám định sở hữu trí tuệ - thị trường cung cấp ý kiến chuyên môn về sở hữu trí tuệ - đã gây không ít khó khăn, thách thức cho hệ thống thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả tòa án.

 

26. Việt Nam có quy định các biện pháp tự vệ (phòng vệ) dành cho bị đơn nhằm chống lại hoặc vô hiệu hóa đơn khởi kiện của nguyên đơn không?

 

Có. Luật sở hữu trí tuệ có quy định cho phép bị đơn tự vệ, chống lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể gồm:

  1. Đơn yêu cầu chấm dứt hiệu lực theo điều 95 hoặc hủy bỏ hiệu lực của quyền sở hữu trí tuệ theo điều 96 mà nguyên đơn dựa vào quyền đó để khẳng định bị đơn xâm phạm, hoặc/và đòi bồi thường thiệt hại
  2. Hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm là hàng nhập khẩu song song
  3. Bị đơn có quyền sử dụng trước đối tượng tranh chấp là sáng chế hoặc kiểu dáng công nghiệp
  4. Sử dụng đối tượng tranh chấp là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp mang mục đích cá nhân, phi thương mại hoặc nhằm mục đích nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất thử
  5. Sử dụng sáng chế do được cơ quan nhà nước cấp dựa trên li-xăng cưỡng bức hoặc li-xăng không tự nguyện (nhà nước bắt buộc chủ bằng độc quyền sáng chế phải cấp phép cho bên thứ 3 được sử dụng sáng chế được bảo hộ ngay cả khi chủ bằng sáng chế không tự nguyện)
  6. Sử dụng hợp lý (fair use) hay còn gọi là sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả thù lao theo điều 25 và 32

 

Trên thực tế, trong một số vụ việc chẳng hạn như tranh chấp quyền độc quyền nhãn hiệu, mặc dù bị đơn đã nộp đơn yêu cầu chấm dứt hiệu lực của nhãn hiệu tại Cục SHTT mà nhãn hiệu này là đối tượng của vụ kiện do nguyên đơn nộp đơn tại tòa án nhưng tòa án vẫn ra phán quyết xử thẳng cho nguyên đơn bất luận tại thời điểm ra phán quyết đơn yêu cầu chấm dứt hiệu lực vẫn chưa được giải quyết bởi Cục SHTT. Thực tế này một mặt bị xem là xâm phạm quy tắc của điều 214(1)(d) Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định rằng tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ để chờ nhận được kết quả giải quyết từ cơ quan, tổ chức khác, và mặt khác thực tế này theo chúng tôi là xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn[1]

 

27. Ai có quyền phản đối hoặc thách thức hiệu lực của các quyền sở hữu trí tuệ được nêu ở câu hỏi 1?

 

Về cơ bản bất kỳ bên thứ 3 (không bắt buộc bên thứ 3 phải là bên có quyền và lợi ích liên quan đến đối tượng sở hữu trí tuệ bị yêu cầu chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực) cũng có quyền yêu cầu từ chối cấp, yêu cầu chấm dứt hiệu lực hoặc hủy bỏ hiệu lực quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả quyền đối với giống cây trồng nếu người thứ 3 này có căn cứ tin rằng việc bảo hộ hoặc chuẩn bị bảo hộ cho quyền sở hữu trí tuệ đó là không đúng hoặc được cấp sai

 

28. Khi nào thì bên thứ 3 có thể bắt đầu thủ tục phản đối, chấm dứt hiệu lực hoặc hủy bỏ hiệu lực đối với một loại quyền sở hữu trí tuệ cụ thể?

 

Bên thứ 3 có quyền phản đối đơn yêu cầu đăng ký chẳng hạn như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, giống cây trồng,…) ngay sau khi đơn yêu cầu đăng ký được chấp nhận về hình thức và được công bố trên công bố sở hữu công nghiệp cho đến trước thời điểm yêu cầu đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đó được cấp văn bằng bảo hộ

 

Sau khi quyền sở hữu trí tuệ được cấp, bên thứ 3 không còn quyền được phản đối nữa, nhưng vẫn có quyền có thể yêu cầu chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực của quyền sở hữu trí tuệ được cấp đó. Tùy thuộc vào bằng chứng và căn cứ pháp lý, quyền sở hữu trí tuệ có thể bị chấm dứt, đình chỉ hoặc bị hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ. Các tình huống văn bằng bị chấm dứt hiệu lực có thể gồm chủ thể quyền không nộp lệ phí gia hạn hoặc lệ phí duy trì hiệu lực văn bằng bảo hộ hoặc chủ thể quyền không có tư cách nộp đơn đăng ký cũng như không được chuyển nhượng quyền nộp đơn đăng ký

 

29. Đơn phản đối, yêu cầu chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực mỗi loại quyền sở hữu trí tuệ phải được nộp cho cơ quan nào?

 

Bằng độc quyền sáng chế, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý thuộc đối tượng của đơn yêu cầu đình chỉ hiệu lực hoặc hủy bỏ hiệu lực trước tiên phải được nộp cho Cục SHTT. Đối với giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan thì các yêu cầu đình chỉ hoặc hủy bỏ hiệu lực được nộp cho Cục bản quyền tác giả (trên thực tế ví dụ như trong vụ tranh chấp quyền tác giả vỡ diễn thực cảnh Tinh Hoa Bắc Bộ được xử bởi Tòa án thành phố Hà Nội năm 2019, các đương sự khởi kiện vụ án dân sự và yêu cầu tòa án tuyên hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả do Cục bản quyền tác giả cấp). Đơn đề nghị chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực đối với bằng bảo hộ giống cây trồng phải được nộp cho Văn phòng bảo hộ giống cây trông (PVP Việt Nam).

 

30. Việt Nam có cơ chế dỡ bỏ hoặc thu hẹp hiệu lực của bất kỳ quyền sở hữu trí tuệ nào không, chẳng hạn như quyết định không xâm phạm ban hành bởi tòa án (declaratory relief hoặc declaratory judgment)?

 

Quyết định hoặc phán quyết không xâm phạm được ban hành bởi tòa án được tạm dịch từ cơ chế declaratory relief hoặc declaratory judgment có trong luật của các nước phát triển (như Mỹ chẳng hạn) được hiểu là một lệnh được ban hành bởi tòa trong đó xác định và khái quát quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ hợp đồng hoặc quan hệ ngoài hợp đồng (đặc biệt là tranh chấp liên quan đến sáng chế) trên cơ sở có yêu cầu của một bên có mục đích chính là để giải quyết sớm tranh chấp hoặc ngăn chặn các vụ kiện tiếp theo từ đó giúp giảm thời gian và tốn kém cho các bên và hệ thống xét xử. Thường thì bên nào nhận được phán quyết nêu trên mà nội dung của nó không có lợi cho mình thì bên đó ít có cơ hội khởi kiện lại, khởi kiện tiếp hoặc nếu có khởi kiện thì nguy cơ cao là bị bác bỏ.

 

Rất tiếc là đến thời điểm này pháp luật Việt Nam chưa có quy định cũng như quan niệm pháp lý về vấn đề này. Do vậy, để hạn chế tối đa nguy cơ tranh chấp, bị kiện dẫn đến nhiều rủi ro trong kinh doanh bao gồm cả tốn kém về chi phí tranh tụng, bồi thường thiệt hại, chúng tôi khuyến nghị các doanh nghiệp nên chủ động tham vấn ý kiến chuyên môn, hỏi ý kiến chuyên gia từ các tổ chức hành nghề chuyên nghiệp như luật sư hoặc tổ chức giám định (VIPRI) về khả năng xâm phạm hay không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trước khi doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất, thử nghiệm và đặc biệt là trước khi đem sản phẩm ra thị trường. Ví dụ, trong lĩnh vực sáng chế, ở các nước phát triển, trước khi một doanh nghiệp thương mại hóa một sản phẩm, quy trình mới họ đều tiến hành thuê cá nhân hoặc tổ chức chuyên nghiệp nghiên cứu đánh giá khả năng xâm phạm sáng chế ở lãnh thổ mà nó dự định, và đánh giá này hay được gọi là FTO (viết tắt của từ Freedom to Operate). Có một khác là doanh nghiệp dự định khai trương sản phẩm mới nhưng lo ngại khả năng bị kiện vì xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác có thể chủ động liên hệ và đàm phán với chủ thể quyền nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ đó mua li-xăng (xin phép sử dụng quyền sở hữu trí tuệ có trả phí bản quyền)

 

31. Các biện pháp pháp lý nào bao gồm cả biện pháp khẩn cấp tạm thời chống lại hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà được phép tiến hành bởi chủ thể quyền?

 

Hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm đó đều có thể trở thành đối tượng của biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm: thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm dịch chuyển quyền sở hữu (điều 207 Luật sở hữu trí tuệ). Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cũng có thể được áp dụng

 

Tòa án bằng lệnh hoặc phán quyết của mình có thể buộc áp dụng 5 biện pháp dân sự để giải quyết tranh chấp hoặc xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:

(a) Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.

(b) Buộc xin lỗi, cải chính công khai.

(c) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự.

(d) Buộc bồi thường thiệt hại.

(e) Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Hết.

 

Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross

 

Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.

 


[1] Xem thêm phán quyết sơ thẩm của Tòa án Bình Dương trong vụ Hảo Hảo vs. Hảo Hạng. https://dantri.com.vn/kinh-doanh/bat-ngo-tao-phien-toa-mi-hao-hao-kien-mi-hao-hang-20171206192924858.htm

 

Bookmark and Share
Relatednews
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal
So sánh quy trình xét nghiệm nhãn hiệu ở Việt Nam và Trung Quốc

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go