Quyền sở hữu trí tuệ không phải là công cụ tiêu diệt cạnh tranh
Về cơ bản, khi một cá nhân hoặc một tổ chức được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu (GCNĐKNH) thì theo Điều 123 Luật Sở hữu trí tuệ có nghĩa cá nhân, tổ chức đó (sau đây gọi chung là chủ thể quyền) đã được Nhà nước thừa nhận họ có quyền độc quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu/thương hiệu mà họ đã được cấp nêu trong GCNĐKNH đó. Tuy nhiên, quyền độc quyền này rất dễ có khuynh hướng bị lạm dụng bởi chủ thể quyền vì lý do chủ thể quyền mong muốn hạn chế hoặc ngăn cản càng nhiều càng tốt quyền gia nhập thị trường của các đối thủ mới, start-up mới.
Để kiểm soát hiện tượng nêu trên, tránh gây hại cho môi trường kinh doanh, đồng thời khuyến khích tự do cạnh tranh và xác lập cơ chế cân bằng giữa quyền độc quyền được cấp và quyền của bên thứ 3, Luật SHTT quy định rằng chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật này ngoài nguyên tắc chung là việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Phòng vệ chính đáng bằng cách nào?
Khi bạn bất ngờ nhận được thư cảnh báo xâm phạm quyền độc quyền nhãn hiệu, hoặc nhận được công văn của cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ thông báo chủ thể quyền nộp hồ sơ yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu và yêu cầu giải trinh, hoặc thậm chí nhận được giấy triệu tập của cơ quan công an yêu cầu trình diện và thẩm vấn, bạn cần bĩnh tĩnh và hãy lưu ý rằng 3 công cụ pháp lý điển hình nhất sau đây có thể giúp bạn phòng vệ (defense) thành công chống lại yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu bởi chủ thể quyền:
-
Nhãn hiệu của bạn không gây nhầm lẫn (no likelihood of confusion) với nhãn hiệu được bảo hộ của chủ thể quyền. Ngoại trừ vấn đề nhãn hiệu nổi tiếng (tạm không đề cập ở đây), yếu tố có tồn tại khả năng gây nhầm lẫn giữa nhãn hiệu được bảo hộ và nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm hay không luôn phụ thuộc vào sự tồn tại đồng thời cả 2 điều kiện: (a) 2 nhãn hiệu trùng hoặc tương tự tới mức có thể nhầm với nhau, và (b) hàng hóa/dịch vụ mang các nhãn hiệu phải trùng nhau hoặc tương tự với nhau; hoặc
-
Thương hiệu/nhãn hiệu mà bạn bị tố cáo xâm phạm quyền nhãn hiệu đã được bạn sử dụng một cách trung thực dưới dạng tên người, hoặc dưới dạng dấu hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ: Tinh Hoa Quà Việt là slogan được sử dụng tự do mà không xâm phạm quyền của nhãn hiệu đã đăng ký Tinh Hoa dù cả 2 nhãn hiệu đều dùng cho bánh kẹo;
-
Bạn sử dụng nhãn hiệu/thương hiệu gắn liền với hàng hóa mà hàng hóa đó có bản chất là hàng hóa được lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng từ chính sản phẩm của chủ thể quyền mà được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp. Sản phẩm là đối tượng của cách phòng vệ này còn hay được biết dưới tên gọi “thị trường xám” (grey market) hoặc sản phẩm “nhập khẩu song song” (parallel import) và pháp luật Việt Nam cho phép bạn được mua bán, kinh doanh, lưu thông và trao đổi sản phẩm thuộc thị trường xám hoặc được nhập khẩu song song mà không coi đây là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hoặc
-
Nếu trường hợp bạn bị tố cáo truy cứu trách nhiệm hình sự, nghĩa là bạn có thể bị tố cáo về một trong các tội phổ biến có liên quan đến xâm phạm nhãn hiệu: tội sản xuất, buôn bán hàng giả (điều 193, 194 và 195) và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 226) Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 có hiệu lực từ 1/1/2018 thì cách tốt nhất có thể cứu thoát bạn khỏi nguy cơ phải chịu trách nhiệm hình sự là bạn phải nỗ lực thuyết phục thành công cơ quan tiến hành tố tụng rằng bạn chỉ vô tình thực hiện hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu chứ không cố ý vì nếu được xác định hành vi đã thực hiện với lỗi vô ý thì không đủ dấu hiệu cấu thành một trong các tội phạm trên.
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Bross & Partners có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn sâu hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài bao gồm cả Mỹ, EU, Canada, Trung Quốc, Thailand. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ vinh@bross.vn hoặc điện thoại 0903 287 057.