Đề xuất giải pháp giúp thẩm định đơn nhãn hiệu đúng hạn luật định |
(Ngày đăng: 2023-10-27) |
|
Đề xuất giải pháp giúp thẩm định đơn nhãn hiệu đúng hạn luật định
Luật sư Lê Quang Vinh – Bross & Partners
Email: vinh@bross.vn
Hiện trạng thẩm định đơn nhãn hiệu hiện nay là quá chậm (gấp 2-3 lần so với thời hạn luật định) vừa gây bức xúc cho xã hội vừa làm mục tiêu của chiến lược quốc gia về SHTT năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ khó thành hiện thực. Nguyên nhân chính của hiện trạng này nằm ở lượng đơn tồn đọng chưa thẩm định quá lớn - 109.000 đơn (gồm cả 11.717 đơn nhãn hiệu đã ra thông báo dự định từ chối).[1] Được mời trình bày tại Hội thảo chiều ngày 23/10/2023 tại Cục SHTT, Bross & Partners đề xuất Cục SHTT mạnh dạn lấy nhãn hiệu làm trọng tâm của kế hoạch cải tổ táo bạo được chúng tôi đề xuất: Giai đoạn 1 (áp dụng ngay cho thực tại) gồm 9 điểm, và Giai đoạn 2 gồm 3 điểm gồm cả kiến nghị tiếp tục sửa đổi Luật SHTT trong thời gian tới.
GIAI ĐOẠN 1
-
Hoàn thiện sớm Quy chế thẩm định nhãn hiệu trong đó nên có quy tắc khái quát về xung đột với quyền có trước để giải quyết một cách khoa học hơn các tranh chấp giữa nhãn hiệu xin đăng ký với quyền có trước bao gồm cả vấn đề dụng ý xấu (bad faith). Các quyền có trước này (chính là các căn cứ pháp lý đang có ở các Điều 74.2i, Điều 74.2g, Điều 74.2k, Điều 87.7) được xem là ngoại lệ của nguyên tắc nộp đơn đầu tiên hoặc/và nguyên tắc ưu tiên,[2] mà đã là ngoại lệ thì cần phải quy định rõ ràng/minh định về tiêu chuẩn được hưởng ngoại lệ và sự phù hợp của bằng chứng chứng minh.
-
Bảng phân loại sản phẩm theo mã của Nice nên được cập nhật thường xuyên bổ sung các sản phẩm mới Cục SHTT chấp nhận về phân nhóm. Cục SHTT nên tuyên truyền, hướng dẫn chủ đơn đăng ký nhãn hiệu dùng các mã sản phẩm được chấp nhận sẵn có đó khi nộp đơn để được ưu tiên xét nghiệm sớm hơn các đơn chứa danh mục sản phẩm không có trong bảng phân loại. Hiện có tới 60% lượng đơn nộp qua đại diện nên các đại diện có thể tư vấn điều hướng tốt cho khách hàng. Mục đích của điều này là để giảm đơn khó, giúp giảm thời gian thẩm định.
-
Theo dõi các đơn nhãn hiệu có nhiều nhóm, hoặc nhãn hiệu có hình kèm chữ, chúng tôi đều thấy tốc độ thẩm định các đơn nhãn hiệu dạng này chậm hơn rất nhiều so với các đơn nhãn hiệu chỉ có chữ/đơn ít nhóm, hoặc các nhãn hiệu biến thể nộp cùng một chủ đơn. Chúng tôi được biết có vẻ như việc xác định định mức cho thẩm định viên chỉ dựa trên đầu đơn mà không dựa trên mức độ khó/dễ của đơn nên đây là nguyên nhân khiến tốc độ thẩm định các loại đơn này là khác nhau. Mặt khác, nếu giả định rằng Cục SHTT là một công ty thì theo quan điểm của chúng tôi nên chăng cần xác định lại định mức để đánh giá chính xác năng suất và KPI làm căn cứ xét thưởng, lương tạo sự công bằng và động lực làm việc cho thẩm định viên.
-
Sự ngưng trệ hoạt động thẩm định tất cả các đơn trong 5 tháng vừa qua do thay đổi hệ thống CNTT ở Cục SHTT là một sự cố rất nghiêm trọng không chỉ gây bức xúc rất lớn cho doanh nghiệp, gây áp lực lớn về giải trình trách nhiệm của các đại diện cho khách hàng mà còn tiếp tục làm tăng số lượng đơn tồn lên cao hơn, gây áp lực lớn hơn cho Trung tâm thẩm định nhãn hiệu. Vì vậy, chúng tôi đề xuất cần nâng cấp và sử dụng hạ tầng CNTT sao cho luôn đảm bảo tính hiệu quả và thông suốt và Cục SHTT nên kiến nghị Bộ Tài chính chi tiền để Cục SHTT thực hiện chiến lược quốc gia về SHTT (chứ không đề nghị giải ngân cho hoạt động thuộc “lĩnh vực đặc thù”).
-
Nên có cơ chế ưu tiên thẩm định nhanh các đơn nhãn hiệu mà việc cấp/từ chối nó có giá trị quyết định đến các vụ việc tranh chấp/xử lý bởi các cơ quan khác, hoặc ưu tiên xử lý các đơn nhãn hiệu mà có bằng chứng đang sử dụng vì hầu hết các nhãn hiệu xin đăng ký là nhãn hiệu chưa sử dụng hoặc còn lâu mới sử dụng hoặc không bao giờ sử dụng. Làm được điều này sẽ góp phần giảm sự bức xúc cho xã hội, tổ chức đại diện và Cục SHTT.
-
Cần xây dựng hệ thống thông tin nội bộ đầy đủ và cập nhật để hạn chế tối đa mắc sai lầm do thiếu sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bộ phận ở Cục SHTT (đặc biệt là giữa Trung tâm thẩm định nhãn hiệu và Phòng khiếu nại).
-
Cục SHTT cấp văn bằng bảo hộ dựa trên nguồn thông tin tối thiểu chứ không dựa trên nguồn thông tin tối đa, do vậy, không nên quá lo ngại về việc cấp sai văn bằng bảo hộ (Cơ quan lập pháp đã loại bỏ Điều 170 BLHS 1999 tức là phi hình sự hóa đối với hành vi cấp sai văn bằng bảo hộ) vì Cục SHTT không thể kiểm soát được hoặc không có điều kiện để biết trước được liệu nhãn hiệu được cấp có xung đột với quyền có trước nào đó hay không. Nên thoải mái chấp nhận các văn bằng đã cấp có thể trở thành đối tượng của các vụ hủy bỏ hiệu lực, khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính vì điều này cũng có nghĩa hệ thống SHTT sẽ phát triển cân bằng hơn khi vai trò đối trọng của tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác bị sức ép phát triển theo.
-
Nên xem xét thay đổi tư duy dựa trên giả định trước về chỉ dẫn sai lệch, gây nhầm hoặc lừa dối sang giả định sau (không coi một dấu hiệu mặc nhiên là chỉ dẫn sai lệch chừng nào có chứng cứ chứng minh ngược lại một cách thuyết phục) vì các nước IP5 không mặc nhiên đồng nhất tên địa lý với nguồn gốc địa lý (ví dụ China và Mỹ đều giả định rằng mọi tên địa lý nước ngoài không lừa dối hoặc gây nhầm lẫn trừ khi có căn cứ tên địa lý đó được biết đến bởi công chúng Trung Quốc). Nhìn chung không nên dùng thuật ngữ “tên địa danh” vì bản thân khái niệm này có thể gây hiểu nhầm nó là tên địa điểm có danh tiếng về sản phẩm nào đó mà nên dùng thuật ngữ có nội hàm rộng chính xác hơn là tên địa lý.
-
Không nên và cũng không cần thiết đánh đồng mọi tên doanh nghiệp là tên thương mại vì 3 lý do chính: (1) ranh giới phân định giữa tên thương mại và nhãn hiệu có mấu chốt nằm ở cách dùng của dấu hiệu, cụ thể nếu dùng để xưng danh doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác thì gọi là tên thương mại, còn dùng để phân biệt nguồn gốc sản phẩm này với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác thì gọi là nhãn hiệu (nhận thức này hoàn toàn phù hợp với lý luận nền tảng của WIPO, quan điểm của Mỹ và ngay cả chính Luật SHTT 2022); (2) tên thương mại dù phát sinh quyền tự động giống như quyền tác giả (nhưng quyền tác giả cũng chỉ phát sinh nếu thỏa mãn cả 2 điều kiện: tính nguyên gốc và định hình vật chất) thì không có nghĩa là quyền đó tự động phát sinh ở tên doanh nghiệp mà quyền đó chỉ tồn tại khi và chỉ khi chủ thể đòi quyền đối với tên thương mại chứng minh được tên doanh nghiệp đó thỏa mãn các điều kiện được bảo hộ làm tên thương mại; (3) Luật quy định Cục SHTT không có nghĩa vụ chứng minh sự tồn tại của tên thương mại mà nghĩa vụ chứng minh đó thuộc về chủ thể đòi quyền đối với tên thương mại. Các tranh cãi, tranh chấp liên quan đến tên thương mại nên được xếp vào dạng tranh chấp với quyền có trước, và tốt nhất nên để nó được giải quyết bằng thủ tục khác như khiếu nại, hủy hiệu lực hoặc khởi kiện hành chính/dân sự.
GIAI ĐOẠN 2
-
Đề xuất sửa Luật SHTT để thay đổi cơ chế thẩm định nhãn hiệu (quy trình thẩm định hiện tại là tương đối lạc hậu), theo đó cắt bớt một số khúc/giai đoạn thẩm định nhãn hiệu theo một trong 2 cách. Cách 1: Bỏ thẩm định hình thức và công báo A, thẩm định hình thức lồng vào cùng với thẩm định nội dung, rút ngắn thời gian phản đối từ 5 về 3 tháng, thay đổi cơ chế phản đối (từ phản đối lồng trong thẩm định nội dung sang phản đối sau khi kết thúc thẩm định nội dung), cụ thể sau khi không tìm thấy căn cứ tuyệt đối và căn cứ tương đối Cục SHTT sẽ công bố nhãn hiệu được duyệt sơ bộ (giai đoạn này có ý nghĩa tương đương như giai đoạn nhận thông báo cấp) để bên thứ 3 phản đối trong 3 tháng, hết thời hạn này không có phản đối nhãn hiệu chuyển sang giai đoạn cấp văn bằng. Cách 2: tương như cách 1 nhưng khác ở chỗ, Cục SHTT chỉ công bố chấp thuận sơ bộ nhãn hiệu nào đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ để bên thứ 3 phản đối, và nếu không có phản đối, nhãn hiệu sẽ được cấp văn bằng mà không cần nộp phí cấp văn bằng (Cục SHTT có thể thiết kế đưa phí cấp bằng vào phí nộp đơn để bù cho việc không thu phí cấp bằng).
-
Xây dựng hệ thống phân loại phụ (similar group code) để tự động xác định tính tương tự của sản phẩm theo phân loại phụ. Làm được điều này giúp thẩm định viên có thể giải phóng 50% thời gian thẩm định do không phải đi so sánh tính trùng/tương tự sản phẩm mang các nhãn hiệu mà chỉ đi so sánh tính tương tự giữa các nhãn hiệu. Hơn nữa, hệ thống phân loại phụ được vận hành sẽ giúp giảm các tranh cãi/bất đồng/thiếu nhất quán không cần thiết giữa các bộ phận, đặc biệt là giảm các vụ khiếu nại.
-
Thiết kế lại Điều 73 và Điều 74 theo hướng phân định rõ ràng căn cứ tuyệt đối và căn cứ tương đối.
Bross & Partners, một công ty sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất (Tier 1) trong 3 năm liên tục (2021-2023) bởi Tạp chí Legal 500 Asia Pacific, có nhiều kinh nghiệm về đăng ký và giải quyết tranh chấp nhãn hiệu (thương hiệu).
Vui lòng liên hệ Email: vinh@bross.vn; Mobile: 0903287057; Zalo: +84903287057; Skype: vinh.bross; Wechat: Vinhbross2603.
[1] Đây là số liệu thống kê chính thức của Trung tâm thẩm định nhãn hiệu – Cục Sở hữu trí tuệ tại Hội thảo chuyên môn chiều ngày 23.10.2023. Đơn đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam là một loại đơn sở hữu công nghiệp chiếm số lượng áp đảo (khoảng trên 60.000 đơn/năm), nhiều gấp từ 7-8 lần so với đơn sáng chế, hoặc 19-20 lần so với đơn kiểu dáng, trong đó đa phần nhãn hiệu được nộp là của doanh nghiệp Việt Nam.
[2] Nguyên tắc ưu tiên theo Điều 91 Luật SHTT 2022 được giải thích quá hẹp. Theo thực tiễn pháp luật nước ngoài, nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi (dù nộp đơn muộn hơn nhãn hiệu tranh chấp, hoặc không nộp đơn đăng ký) nếu được công nhận, thường được xem là có quyền ưu tiên tốt hơn so với ngày nộp đơn đầu tiên của nhãn hiệu tranh chấp. Đây là cách lập luận được chấp nhận rộng rãi trong thực tiễn giải quyết tranh chấp nhãn hiệu đặc biệt là tranh chấp có liên quan đến yếu tố bad faith ở các hệ thống SHTT lớn nhất thế giới.
|
|
|
|
|