Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
Giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại bản án sở hữu trí tuệ đã có hiệu lực pháp luật
(Ngày đăng: 2020-07-20)

Giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại

bản án sở hữu trí tuệ đã có hiệu lực pháp luật

 

Email: vinh@bross.vn

 

Giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

 

Giám đốc thẩm là một thủ tục pháp lý cho phép xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm bởi người có thẩm quyền kháng nghị khi có một trong ba căn cứ: (a) kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; (b) có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; (c) có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

 

Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

 

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Trường hợp đặc biệt nếu thỏa mãn cả 2 điều kiện thì thời hạn kháng nghị có thể kéo dài đến 5 năm: (a) đương sự đã có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm và sau khi hết thời hạn kháng nghị 3 năm đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; và (b) bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật vi phạm căn cứ đầu tiên trong 3 căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

 

Về thầm quyền xét xử giám đốc thẩm, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm 5 Thẩm phán giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị.

 

Về thực tiễn, nhìn chung sau năm 2010 dường như không tìm thấy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nào liên quan đến giải quyết các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ bởi hệ thống tòa án ở Việt Nam bị kháng nghị và giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm. Trước năm 2010, chúng tôi tìm thấy bản án dân sự phúc thẩm số 316/2006/DS-PT ngày 04/01/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 275/2006/DSST ngày 29/03/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong vụ án “đòi bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy toàn bộ cả 2 bản án này.

 

Lý do chính dẫn đến giám đốc thẩm các bản án nêu trên là vì Tòa án nhân dân tối cao cho rằng các tòa án đã không xác minh làm rõ thiệt hại thực tế của nguyên đơn là do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra để có căn cứ giải quyết yêu cầu bồi thường. Mặt khác, tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết lại coi số lượng thuốc POSINIGHT mà 2 bị đơn đã tiêu thụ tương đương với số lượng thuốc POSTINOR mà nguyên đơn có thể tiêu thụ được và căn cứ vào yêu cầu của nguyên đơn để buộc các bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn 30% doanh thu bán hàng là chưa có cơ sở vững chắc. Còn Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng pháp luật chưa quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh, từ đó bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là không đúng[1].

 

Tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

 

Tương tự như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cũng là một thủ tục pháp lý để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị nhưng khác biệt ở chỗ có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó[2].

 

Tuy nhiên, ngoài việc mới phát hiện tình tiết mới quan trọng là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, ba trường hợp khác được luật xác định là căn cứ kháng nghị tái thẩm gồm: (a) có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ; (b) Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; (c) bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.

 

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Thời hạn để thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dành cho những người có thẩm quyền nêu trên là 01 năm kể từ ngày những người này biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Tuy nhiên, tương tự như thủ tục giám đốc thẩm, việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không áp dụng đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

 

Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

 

Thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đều là thủ tục pháp lý xem xét lại quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị xem là mắc sai lầm nghiêm trọng hoặc có thể làm thay đổi căn bản nội dung bản án, quyết định do có tình tiết mới.

 

Tuy nhiên, quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị xem xét giám đốc thẩm hoặc tái thẩm lại không bao gồm quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do vậy pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định thêm thủ tục đặc biệt là Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải xem xét lại quyết định của mình trên cơ sở có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

 

Hệ quả pháp lý của thủ tục đặc biệt là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trên cơ sở được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành, sẽ ban hành một trong các quyết định sau:

a) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;

b) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Tòa án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật;

c) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.

 

Bross & Partners có kinh nghiệm hỗ trợ khách hàng khởi kiện tại tòa án bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự bao gồm cả giúp khách hàng tự vệ ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ khi bị chủ thể khác khởi kiện. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057, 84-4-3555 3466; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross.

 

Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như IP Stars, World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và tên miền internet.

 

 



[1] Xem Quyết định giám đốc thẩm số 29/2009/DS-GĐT ngày 09/09/2006 về vụ án “Đòi bồi thường thiệt hai do hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp”

[2] Xem điều 351, 352 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

 

Bookmark and Share
Relatednews
Khi nào không thể hoặc không nên đăng ký thương hiệu ra nước ngoài theo Hệ thống Madrid?
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go