Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG Ở TRUNG QUỐC (PHẦN 3)
(Ngày đăng: 2018-10-24)

PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG Ở TRUNG QUỐC[1]

 

[Phần 3/3: Giới thiệu một số đặc trưng chủ yếu của thủ tục

công nhận nhãn hiệu nổi tiếng bằng con đường hành chính]

 

Ngày 7/3/2014 SAIC ban hành Bản quy định về xác định và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng[2] nhằm hướng dẫn Điều 13 và Điều 14 Luật nhãn hiệu 2013 liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng kèm theo Lệnh số 66 (dưới đây gọi là Lệnh số 66). Lệnh số 66 gồm 21 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 7/4/2014.

 

Dưới đây là tóm lược và bình luận một số đặc trưng cơ bản của quy trình công nhận nhãn hiệu nổi tiếng.

 

  1. Tính chất biết tới rộng rãi bởi bộ phận công chúng có liên quan tại Trung Quốc chứ không yêu cầu nó phải được biết tới rộng rãi bởi công chúng nói chung (công chúng đại chúng), một thuộc tính gắn liền với định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng, tiếp tục được khẳng định sự nhất quán xuyên suốt trong lịch sử phát triển quan điểm pháp lý của Trung Quốc về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, cụ thể Điều 2 Lệnh số 66 định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi bởi bộ phận công chúng có liên quan tại Trung Quốc.[3]

 

  1. Điều 9 Lệnh số 66 hướng dẫn cụ thể yêu cầu về bằng chứng chứng minh 5 yếu tố cần phải xem xét theo Điều 14 Luật nhãn hiệu năm 2013 về công nhận nhãn hiệu nổi tiếng, cụ thể:

 

  1. Tài liệu chứng minh mức độ biết đến nhãn hiệu bởi công chúng có liên quan;
  2. Tài liệu chứng minh thời gian sử dụng nhãn hiệu, chẳng hạn như chứng cứ liên quan đến lịch sử, phạm vi sử dụng và đăng ký nhãn hiệu. Nếu nhãn hiệu chưa đăng ký, chứng cứ liên quan đến thời hạn sử dụng phải không được ít hơn 5 năm trong khi đối với nhãn hiệu đã đăng ký thì quy định này liên quan đến tình trạng đã được đăng ký giới hạn là 3 năm hoặc vẫn liên tục được sử dụng không dưới 5 năm
  3. Chứng cứ, tài liệu chứng minh thời gian, phạm vi, khu vực địa lý của bất kỳ công việc quảng bá nhãn hiệu, chẳng hạn như chứng cứ liên quan đến cách thức quảng cáo và hoạt động xúc tiến bán hàng, khu vực địa lý, các phương thức quảng cáo và số lượng các quảng cáo trong 3 năm gần nhất.
  4. Tài liệu chứng minh nhãn hiệu đã được công nhận là nổi tiếng ở Trung Quốc hoặc ở bất kỳ khu vực hoặc quốc gia nào khác
  5. Các bằng chứng khác chứng minh nhãn hiệu là nổi tiếng như tài liệu phản ánh doanh thu, thị phần, lợi nhuận, nộp thuế, doanh thu theo lãnh thổ của sản phẩm chính mang nhãn hiệu trong 3 năm gần nhất.

 

Quy định “3 năm” hoặc “5 năm” nêu trên phải được hiểu là “3 năm” hoặc “5 năm” trước ngày mà đơn đăng ký nhãn hiệu bị phản đối được nộp, hoặc trước ngày mà đăng ký nhãn hiệu bị đề nghị hủy bỏ hiệu lực, và trước khi đơn yêu cầu điều tra và xử lý hành vi sử dụng trái phép nhãn hiệu được nộp cho cơ quan công thương có thẩm quyền.

 

  1. CTMO có thẩm quyền thụ lý yêu cầu công nhận đối với cả nhãn hiệu nổi tiếng đã đăng ký và nhãn hiệu nổi tiếng không đăng ký tại Trung Quốc trong trường hợp các yêu cầu này được tiến hành cùng với thủ tục phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu của người khác.

 

Theo quy định tại Điều 33 Luật nhãn hiệu năm 2013 bất kỳ chủ thể nắm quyền có trước hoặc bất kỳ bên có quyền lợi liên quan đều có quyền nộp yêu cầu phản đối cùng với bằng chứng chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng tại CTMO chống lại nhãn hiệu xin đăng ký của người khác mà đã được xét nghiệm và phê duyệt sơ bộ bởi CTMO trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày công bố, nếu nhãn hiệu xin đăng ký bị nghi ngờ là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng, cụ thể nhãn hiệu xin đăng ký là bản sao, bản bắt chước hoặc bản dịch của nhãn hiệu nổi tiếng tuy chưa được đăng ký ở Trung Quốc với điều kiện hàng hóa/dịch vụ mang các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhau và với điều kiện việc đăng ký và sử dụng nhãn hiệu xin đăng ký đó có thể gây nhầm lẫn cho công chúng và gây tổn thất về lợi ích cho chủ thể sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng đó[4].

Trong trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng đã đăng ký thì không yêu cầu chứng minh hàng hóa/dịch vụ mang các nhãn hiệu phải trùng hoặc tương tự nhưng bên phản đối phải chứng minh sự tồn tại của nhãn hiệu xin đăng ký có thể gây ấn tượng sai lệch cho công chúng và gây tổn hại về lợi ích của chủ nhãn hiệu nổi tiếng.

 

CTMO có nghĩa vụ phải ra quyết định giải quyết yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng trong thủ tục phản đối trong vòng không quá 12 tháng, hoặc tối đa không quá 15 tháng trong trường hợp gia hạn được chấp nhận, kể từ ngày công bố đơn sau khi đã điều tra và xác thực[5].

 

  1. TRAB có thẩm quyền thụ lý giải quyết các vấn đề liên quan đến công nhận nhãn hiệu nổi tiếng, gồm: (i) đơn khiếu nại nộp bởi bên phản đối hoặc bên bị phản đối chống lại quyết định giải quyết phản đối được ban hành bởi CTMO, (ii) đơn khiếu nại chống quyết định của CTMO về việc từ chối cấp đăng ký nhãn hiệu, (iii) đơn yêu cầu hủy bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu. Bên nào yêu cầu TRAB công nhận nhãn hiệu của mình là nổi tiếng thì có nghĩa vụ phải chứng minh kèm theo tài liệu, chứng cứ chứng minh tình trạng nổi tiếng đối với nhãn hiệu của mình[6].

 

  1. Theo Điều 11 và 12 Lệnh số 66, trường hợp một bên phát hiện bên khác có hành vi sử dụng trái phép nhãn hiệu nổi tiếng thì có thể nộp đơn yêu cầu cơ quan hành chính phụ trách lĩnh vực công thương ở địa phương điều tra và xử lý. Cần lưu ý rằng hệ thống cơ quan hành chính phụ trách lĩnh vực công thương được đề cập ở đây chính là cơ quan cấp dưới trực tiếp của SAIC được trao thẩm quyền hỗ trợ thụ lý hồ sơ ban đầu gồm cơ quan công thương cấp huyện/quận và sở công thương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

 

Tính chất thẩm quyền hỗ trợ thụ lý được thể hiện ở chỗ các cơ quan này chỉ có nhiệm vụ tiếp nhận đơn và xem xét sơ bộ yêu cầu đầu tiên cùng với tài liệu bằng chứng chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng nộp bởi bên có yêu cầu, chứ không có thẩm quyền xem xét quyết liệu liệu nhãn hiệu được yêu cầu có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Việc xem xét sơ bộ này sẽ dẫn đến quyết định thụ lý hoặc không thụ lý yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Nếu chấp nhận thụ lý, cơ quan thụ lý sẽ phải tiến hành rà soát và đánh giá sơ bộ liệu yêu cầu đã nộp cùng với chứng cứ chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng liệu có tuân thủ quy định tại Điều 13, 14 Luật nhãn hiệu 2013 và Điều 9 của Lệnh số 66 hay không. Nếu nhận thấy hồ sơ đáp ứng quy định, cơ quan thụ lý trong vòng 30 ngày kể từ ngày thụ lý phải nộp yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng cùng với bản sao hồ sơ vụ việc cho cơ quan công thương cấp trên. Trường hợp yêu cầu không đáp ứng thì ra quyết định từ chối thụ lý và yêu cầu này sẽ được giải quyết theo Các Quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính[7].

 

Cơ quan công thương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan mà đã tiếp nhận toàn bộ hồ sơ yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng được xác nhận và chuyển lên từ cấp dưới, có trách nhiệm xác thực và xem xét lại một lần nữa các tài liệu có trong hồ sơ, và nếu được xem là tuân thủ các quy định của Điều 13, 14 Luật nhãn hiệu 2013 và Điều 9 của Lệnh số 66 thì trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ nó phải nộp hồ sơ cùng với bản sao tài liệu liên quan cho CMTO. Trường hợp hồ sơ bị xem là không hợp lệ, CTMO sẽ trả lại toàn bộ hồ sơ cho cơ quan công thương ban đầu đã thụ lý hồ sơ để cơ quan này xử lý vụ việc theo Các Quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

 

Trường hợp CTMO quyết định nhãn hiệu thuộc yêu cầu công nhận nổi tiếng là nhãn hiệu nổi tiếng thì nó phải gửi thông báo cho cơ quan công thương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan mà đã nộp yêu cầu công nhận đó. Cơ quan công thương, mà đã thụ lý yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng, trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được văn bản thông báo quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng sẽ phải ra quyết định xử lý hành vi vi phạm đồng thời gửi bản sao quyết định xử phạt cho cơ quan công thương cấp tỉnh để cơ quan này báo cáo quyết định xử lý vi phạm hành chính tới CTMO trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được bản sao quyết định xử lý vi phạm hành chính.

 

  1. Các yếu tố cần xem xét đánh giá liệu một nhãn hiệu có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không như quy định của TRIPs hay Khuyến nghị WIPO năm 1999 phải được hiểu rằng chúng chỉ mang tính chất là tập hợp các yếu tố cần phải được được đánh giá toàn diện, nghĩa là không được bỏ qua bất kỳ yếu tố nào trong số đó, nhưng không có nghĩa là bằng chứng chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng phải có và phải thỏa mãn từng yếu tố đó. Về vấn đề này Trung Quốc khẳng định lập luận rõ ràng tại Điều 13 Lệnh số 66 rằng CTMO và TRAB trong quá trình xem xét công nhận nhãn hiệu nổi tiếng phải đánh giá toàn diện mọi yếu tố đã quy định tại Điều 14 Luật nhãn hiệu 2013 và hướng dẫn nêu tại Điều 9 của Lệnh số 66 theo nguyên tắc không có yếu tố tiên quyết nào được đặt ra để buộc nhãn hiệu thuộc đối tượng xem xét là nổi tiếng phải đáp ứng tất cả các yếu tố đó.

 

  1. Lệnh số 66 giải quyết tình huống theo đó trong trường hợp một nhãn hiệu đã được công nhận là nổi tiếng trước đó trong một vụ việc khác thì liệu nó có đương nhiên được bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu nổi tiếng hay không trong vụ việc hiện tại mà có thể mang các tình tiết hoặc dữ kiện khác. Về vấn đề này Điều 16 Lệnh số 66 quy định trong quá trình xét nghiệm đơn đăng ký nhãn hiệu, xử lý các tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu, hoặc điều tra xử lý hành vi vi phạm nhãn hiệu mà có yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng bởi một bên và bên này cung cấp hồ sơ chứng tỏ nhãn hiệu của mình đã được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì trong trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng được công nhận trước đó có phạm vi bảo hộ trùng hoặc hầu như trùng với nhãn hiệu thuộc vụ việc đang tranh chấp, và cả hai bên đều không có ý kiến phản đối thực tế rằng nhãn hiệu đó là nổi tiếng, hoặc bất kỳ bên nào phản đối mà lý do và bằng chứng phản đối rõ ràng cho thấy là không đủ bổ trợ cho ý kiến phản đối thì CTMO, TRAB và cơ quan công thương mà đã thụ lý vụ việc có thể bảo hộ nhãn hiệu trong vụ việc đó trên danh nghĩa là nhãn hiệu nổi tiếng dựa theo hồ sơ công nhận nhãn hiệu nổi tiếng trước đây và các bằng chứng có liên quan.

 

Cần lưu ý rằng nếu có bất kỳ bên nào được phát hiện là đang trục lợi từ chế định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng bằng cách lừa dối, cung cấp chứng cứ, thông tin sai sự thật hoặc các cách thức bất hợp pháp khác thì CTMO sẽ hủy bỏ quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng liên quan tới vụ việc đó đồng thời thông báo cho cơ quan công thương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi mà đã chuyển hồ sơ của vụ việc đó.

 

Như vậy, có thể thấy rằng nếu nhãn hiệu nổi tiếng bị xem là có mức độ yếu theo một trong ba yếu tố trên thì tòa án thường sẽ ra phán quyết giới hạn phạm vi bảo hộ, cụ thể thay vì được bảo hộ xuyên nhóm bằng bảo hộ ngoại trừ một số nhóm hoặc sản phẩm.

 

 

[Hết]

 

Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Bross & Partners có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn sâu hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài bao gồm cả Mỹ, EU, Canada, Trung Quốc, Thailand. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ vinh@bross.vn hoặc điện thoại 0903 287 057.

 

 


[1] Trích Báo cáo nghiên cứu thuộc Dự án bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp công bố ngày 17/11/2017 tại Hà Nội và được phát hành bởi Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật năm 2017 bởi đồng tác giả Ls. Lê Quang Vinh và Ts. Phan Ngọc Tâm

[2] Provisions on the Determination and Protection of Well-known Trademarks

[3] “Well-known trademark mean the trademark widely known by the relevant public in China”

[4] Điều 33, Điều 13 đoạn 2 Luật nhãn hiệu năm 2013, Điều 5 Lệnh số 66

[5] Điều 10 Lệnh số 66

[6] Điều 6 Lệnh số 66

[7] Cụm từ này được dịch sang tiếng Anh là “Provisions on the Procedure for the Imposition of Administrative Authorities for Industry and Commerce” từ nguồn www.lawinfochina.com

 

Bookmark and Share
Relatednews
Thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền tác giả ở Việt Nam, UK, Mỹ, EU và Trung Quốc
Cấp quyền nhân vật (merchandising rights) và các khía cạnh pháp lý cần lưu ý cho bên cấp quyền và bên nhận quyền
So sánh Đăng bạ chính (Principal Register) và Đăng bạ phụ (Supplemental Register) khi đăng ký nhãn hiệu ở USPTO
10 Key Changes in Enforcing Patent, Design, Trademark Rights via Administravive Measure under Revised Decree 99/2013/NĐ-CP
Qatar tham gia Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
Thương hiệu giả mạo “Phở Thìn 13 Lò Đúc” bị hủy bỏ hiệu lực ở Hàn Quốc
10 thay đổi lớn về thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính theo Nghị định 99/2013/NĐ-CP sửa đổi
Khi nào không thể hoặc không nên đăng ký thương hiệu ra nước ngoài theo Hệ thống Madrid?
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.