Email: vinh@bross.vn
1. Điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
Không có điều kiện đặc biệt nào để một tác phẩm có thể được bảo hộ quyền tác giả. Tương tự như tiêu chuẩn được công nhận trên toàn thế giới, tất cả các tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học (literary and artistic works) được quy định trong Công ước Berne đều có khả năng được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam khi đáp ứng 2 điều kiện: (a) tác phẩm được sáng tạo ra và định hình dưới một hình thức vật chất nhất định (fixation), và (b) tác phẩm đó có tính nguyên gốc (originality)
Tương tự như quyền tác giả, buổi biểu diễn, bản ghi âm ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được được coi là quyền liên quan và được bảo hộ với điều kiện chúng được định hình mà không gây phương hại đến quyền tác giả.
Theo điều 14(3) Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009 (dưới đây gọi tắt là “Luật SHTT”), tính nguyên gốc có nghĩa tác phẩm đó phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
2. Việt Nam bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học nào?
Có 12 loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học được bảo hộ theo điều 14 Luật SHTT, gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu
3. Thể loại tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học nào Việt Nam không bảo hộ?
Việt Nam không chấp nhận bảo hộ đối với ba loại đối tượng sau:
(a) Tin tức thời sự thuần túy đưa tin;
(b) Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó,
(c) Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
4. Tác phẩm phái sinh là gì và cách nhận biết nó?
Theo điều 4(8) Luật SHTT, tác phẩm phái sinh (derivative work) là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Và điều 14(2) Luật SHTT khẳng định thêm rằng tác phẩm phái sinh được bảo hộ như tác phẩm được bảo hộ khác với điều kiện nó không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Trên thực tiễn, để xác định một tác phẩm có phải là tác phẩm phái sinh hay không người ta thường phải tìm thấy cả đặc điểm sau:
(a) Tác phẩm phái sinh chỉ có thể được hình thành trên cơ sở của một hoặc một số tác phẩm khác đã tồn tại trước đó. Các tác phẩm tồn tại trước có thể gồm tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ hoặc vẫn đang trong thời hạn bảo hộ.
(b) Hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh thường phải khác biệt hoàn toàn với hình thức thể hiện của tác phẩm tồn tại trước
(c) Về tính nguyên gốc, tác phẩm phái sinh phải do chính tác giả trực tiếp sáng tạo mà không được đi sao chép từ các tác phẩm đã tồn tại. Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý rằng ranh giới giữa sáng tạo tác phẩm phái sinh và xâm phạm quyền tác giả là rất phức tạp vì nó khó xác định, trong nhiều trường hợp người ta thường dựa trên căn cứ xâm phạm quyền nhân thân gắn liền với tác giả, vốn không thể chuyển giao, chẳng hạn như sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả
(d) Dù tác phẩm phái sinh được bảo hộ như tác phẩm gốc song dấu ấn của tác phẩm gốc vẫn phải được thể hiện trong tác phẩm phái sinh, chẳng hạn như tồn tại khả năng liên tưởng tới tác phẩm gốc khi tiếp cận với tác phẩm phái sinh.
5. Việt Nam có cơ quan đăng ký quyền tác giả không? Đăng ký quyền tác giả có bắt buộc không?
Có. Cục Bản quyền tác giả, một cơ quan trực thuộc Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả (GCNĐKQTG), Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan (GCNĐKQLQ)
Khác với bằng độc quyền sáng chế và giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu,… GCNĐKQTG và GCNĐKQLQ không phải là điều kiện hoặc căn cứ pháp lý làm phát sinh quyền tác giả hoặc quyền liên quan. Tuy vậy, các bên liên quan được khuyến nghị xin cấp đăng ký GCNĐKQTG và GCNĐKQLQ vì người được cấp các giấy chứng nhận này không có nghĩa vụ phải chứng minh mình là tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan khi có tranh chấp xảy ra.
6. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả như thế nào? Thời hạn bảo hộ có khác nhau tùy theo loại hình tác phẩm hay không?
Việt Nam cấp thời hạn bảo hộ khác nhau cho các loại hình tác phẩm khác nhau, và thời hạn bảo hộ này cũng khác biệt giữa quyền nhân thân (còn gọi là quyền tinh thần) và quyền tài sản (còn gọi là quyền kinh tế). Quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm): (a) đặt tên cho tác phẩm, (b) đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, (c) bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả được bảo hộ vô thời hạn, không thể chuyển nhượng cũng như không thể chuyển giao quyền sử dụng
Các quyền tài sản bao gồm: (a) làm tác phẩm phái sinh, (b) biểu diễn tác phẩm trước công chúng, (c) sao chép tác phẩm, (d) phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, (đ) truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, (e) cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Trong trường hợp tác phẩm đã được công bố, quyền tài sản của các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trường hợp các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
Tác phẩm không thuộc các loại hình đã nêu trên có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Cũng cần đặc biệt lưu ý rằng chỉ duy nhất một quyền nhân thân “công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm” có thời hạn bảo hộ tương tự như các quyền tài sản nêu trên.
7. Có tồn tại khả năng bảo hộ chồng lấn giữa quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu không?
Khả năng bảo hộ chồng lần giữa bản quyền tác giả và các quyền sở hữu trí tuệ khác có thể xảy ra nếu như cùng một đối tượng sở hữu trí tuệ (ví dụ: logo, thiết kế đồ họa, thông tin trên bao gói sản phẩm) có thể được bảo hộ đồng thời dưới danh nghĩa bản quyền tác giả, nhãn hiệu, và kiểu dáng công nghiệp miễn là đối tượng sở hữu trí tuệ đó phải thỏa mãn tiêu chuẩn bảo hộ của quyền tác giả, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp tương ứng. Và như vậy, bảo hộ chồng lấn đã làm phát sinh xung đột pháp luật khiến mục tiêu đưa đối tượng sau khi hết thời hạn bảo hộ trở thành tài sản chung của xã hội có thể thất bại hoặc khiến cho các tranh chấp pháp lý trở nên phức tạp và bế tắc trong giải quyết
Để giải quyết sự xung đột này, pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định nguyên tắc, dù chưa đủ khái quát, quyền sở hữu công nghiệp có thể bị hủy bỏ hiệu lực hoặc bị cấm sử dụng nếu chúng xung đột với các quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác đã được xác lập trước đó.
Còn nữa….
Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.