Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
Phần 1/2: Quản lý, khai thác, phát triển và bảo hộ TSTT trong doanh nghiệp, cơ sở giảng dạy và nghiên cứu trong bối cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
(Ngày đăng: 2018-12-10)

Quản lý, khai thác, phát triển và bảo hộ TSTT trong doanh nghiệp,

cơ sở giảng dạy và nghiên cứu trong bối cuộc cách mạng công nghiệp 4.0[1]

 

By Luật sư Lê Quang Vinh

BROSS & PARTNERS

vinh@bross.vn

 

Dẫn nhập

 

Năm 2018, Trung tâm Chính sách Đổi mới Toàn cầu (GIPC) thuộc Phòng Thương mại Hoa Kỳ gần đây đã công bố chỉ số sở hữu trí tuệ quốc tế hàng năm lần thứ 6 mang tên "Create", trong đó Việt Nam tăng 30% tổng điểm đạt được so với ấn phẩm xếp hạng lần thứ 5 đã giúp chúng ta được xếp hạng 40 trong số 50 lãnh thổ[2]. Việc tăng hạng này được xem là có nguồn gốc từ việc Việt Nam thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 trong đó quy định rõ ràng hơn về ngưỡng phải chịu trách nhiệm hình sự, pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm liên quan đến các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và bản quyền tác giả. Tuy nhiên, theo PwC, một trong bốn hãng kiểm toán lớn nhất thế giới, tỷ trọng trung bình của giá trị tài sản vô hình trong tổng giá trị doanh nghiệp trên thế giới năm 2016 là 53% nhưng tại Việt Nam tỷ trọng này chỉ đạt 26%[3].

 

Trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình nhanh chóng từng ngày từng giờ vì bắt đầu bùng nổ thời đại công nghệ 4.0 với đặc trưng là internet vạn vật (internet of things), không gian mạng thực-ảo (cyber-physical system), điện toán đám mây (cloud computing) và điện toán nhận thức (cognitive computing), tài sản trí tuệ (TSTT) như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,…cần phải được các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghiên cứu đặc biệt chú ý quản lý, khai thác và bảo vệ kịp thời, hiệu quả không những ở thị trường trong nước mà còn ở nước ngoài. Dù đã có tới 164 quốc gia là thành viên của WTO[4] cùng phải thực hiện khuôn khổ pháp lý quốc tế chung của Hiệp định về các khía cạnh có liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) cũng như các hiệp ước, hiệp định, thỏa ước quốc tế khác có liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ như Công ước Paris, Công ước Berne, Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT), Nghị định thư Madrid,…song vẫn còn đó những khác biệt đáng kể về đối tượng bảo hộ,  điều kiện bảo hộ, phương thức duy trì gia hạn hiệu lực giữa các quốc gia cụ thể. Bài viết dưới đây chỉ xin tập trung vào việc làm rõ một số khác biệt đáng kể đó với ý nghĩa cung cấp thêm thông tin pháp luật và thực tiễn ở một số thị trường xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam qua đó góp phần nâng cao năng lực quản lý, khai thác, phát triển và bảo hộ TSTT trong doanh nghiệp và các cơ sở giảng dạy nghiên cứu

 

Coi chừng mất nhãn hiệu ở Mỹ nếu quên nộp bằng chứng sử dụng

 

Khác với luật pháp của Việt Nam  cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới, nộp Bằng Chứng Sử Dụng (trong tiếng Anh gọi là Declaration of Use hoặc Affidavit of Use) nhãn hiệu theo luật nhãn hiệu Hoa Kỳ trước khi hết năm thứ 6 và trước khi hết năm thứ 10 tính từ ngày nhãn hiệu đó được cấp bảo hộ bởi Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (“USPTO”) là một nghĩa vụ bắt buộc nếu không sẽ dẫn đến đăng ký nhãn hiệu đó bị USPTO hủy bỏ hiệu lực.

 

Có 2 cách có thể giành quyền độc quyền nhãn hiệu ở Hoa Kỳ là nộp đơn đăng ký trực tiếp với USPTO (hay còn gọi là “đăng ký quốc gia”) hoặc nộp đơn đăng ký quốc tế chỉ định Hoa Kỳ (hay còn gọi là “đăng ký quốc tế theo Madrid Protocol”) do vậy về cơ bản quy tắc nộp Bằng Chứng Sử Dụng ở Hoa Kỳ sẽ được áp dụng cho các dạng sau:

 

  • Nộp Bằng Chứng Sử Dụng theo Điều 8 Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ (còn gọi là Section 8 Declaration) áp dụng cho trường hợp đăng ký nhãn hiệu được cấp dưới dạng Đăng ký quốc gia và có Căn Cứ Nộp Đơn dựa trên một trong các điều 1(a), 1(b), 44(d) hoặc 44(e); hoặc

 

  • Nộp Bằng Chứng Sử Dụng theo Điều 71 Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ (còn gọi là Section 71 Declaration) áp dụng cho trường hợp đăng ký nhãn hiệu được cấp dưới dạng Đăng ký quốc tế và có Căn Cứ Nộp Đơn dựa trên 66(a);

 

Có tổng cộng 5 Căn Cứ Nộp Đơn mà chủ nhãn hiệu bị bắt buộc phải lựa chọn một trong số chúng khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Hoa Kỳ, cụ thể gồm:

 

  1. Nhãn hiệu dự định nộp theo Điều §1(a) (Use in Commerce Basis), nghĩa là nhãn hiệu được xác định là đã sử dụng trong thương mại tại lãnh thổ Hoa Kỳ vào đúng ngày hoặc trước ngày nộp đơn tại Hoa Kỳ. Nếu chọn căn cứ nộp đơn này thì Quý  vị phải cung cấp ngày tháng năm sử dụng lần đầu tiên nhãn hiệu đó gắn liền với sản phẩm đăng ký tại lãnh thổ Hoa Kỳ;

 

  1. Nhãn hiệu dự định nộp theo Điều §1(b) (Intent-to-Use in Commerce Basis), nghĩa là USPTO cho phép nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ngay cả khi nó chưa được sử dụng tại Hoa Kỳ. Nếu sử dụng căn cứ nộp đơn này thì USPTO sẽ chỉ cấp giấy chứng đăng ký nhãn hiệu sau khi USPTO ban hành thông báo chấp thuận (Notice of Allowance) và sau khi chủ đơn nộp Tuyên bố bắt đầu sử dụng nhãn hiệu tại Hoa Kỳ; hoặc

 

  1. Nhãn hiệu dự định nộp theo Điều §44(d), nghĩa là Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ cho phép người nộp đơn dựa vào đơn xin đăng ký chính nhãn hiệu này nộp ở nước ngoài (chưa được bảo hộ) để nộp đơn tại Hoa Kỳ. Nếu lựa chọn căn cứ nộp đơn này, USPTO sẽ đình chỉ việc xét nghiệm đơn ở Hoa Kỳ và chỉ cấp văn bằng bảo hộ sau khi người nộp đơn cung cấp bản sao và bản dịch có chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam.

 

  1. Nhãn hiệu dự định nộp theo Điều §44(e) của Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ được hiểu là đơn đăng ký nhãn hiệu tại Hoa Kỳ dựa trên cơ sở nhãn hiệu này đã được cấp đăng ký ở Việt Nam. Điểm đặc biệt của căn cứ nộp đơn này là USPTO chỉ cấp đăng ký cho nhãn hiệu này (mà không yêu cầu nộp bằng chứng sử dụng) khi và chỉ khi Quý vị cung cấp bản dịch và bản sao có xác nhận Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu này ở Việt Nam.

 

  1. Trong trường hợp nhãn hiệu dự định được nộp dưới dạng đăng ký quốc tế thì đơn đăng ký nhãn hiệu này đều phải sử dụng chung một căn cứ nộp đơn duy nhất là theo Điều §66(a), hay còn gọi là dựa theo đơn đăng ký quốc tế theo Nghị định thư Madrid. Căn cứ nộp đơn theo điều §66(a) được đánh giá là có lợi nhất đối với chủ nhãn hiệu ở chỗ nhãn hiệu nộp ở Hoa Kỳ sẽ được cấp đăng ký (giả định không tìm thấy căn cứ từ chối do xung đột với quyền của nhãn hiệu có trước) mà USPTO không yêu cầu Quý vị phải cung cấp bằng chứng sử dụng nhãn hiệu hoặc bản sao và bản dịch của giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam

 

Dưới đây là bảng tóm tắt căn cứ nộp đơn và nghĩa vụ nộp Bằng Chứng Sử Dụng tương ứng:

 


Căn cứ nộp đơn (viết tắt)

Căn cứ nộp đơn (diễn giải)

Nộp Bằng Chứng Sử dụng

Điều §1(a)

 

Đơn dựa trên căn cứ nhãn hiệu đang sử dụng trong thương mại (Application based on use in commerce)

 

  1. Phải nộp Bằng Chứng Sử Dụng kèm theo bằng chứng sử dụng trước khi hết năm thứ 6 tính từ ngày được USPTO cấp đăng ký để duy trì hiệu lực cho các năm còn lại của 10 năm hiệu lực đầu tiên (Nộp theo Điều 8);

 

  1. Phải nộp Bằng Chứng Sử Dụng kết hợp với đơn xin gia hạn hiệu lực giữa năm thứ 9 và năm thứ 10 tính từ ngày được USPTO cấp đăng ký để duy trì hiệu lực cho 10 năm hiệu lực tiếp theo (Nộp theo Điều 8 & Điều 9);

 

  1. Sau đó, cứ vào giữa năm thứ 9 và năm thứ 10 tính từ ngày được USPTO cấp đăng ký của mỗi kỳ hạn hiệu lực 10 năm, chủ nhãn hiệu phải nộp Bằng Chứng Sử Dụng  hợp với đơn xin gia hạn hiệu lực (Nộp theo Điều 8 & Điều 9)

 

Điều §1(b)

 

Đơn dựa trên ý định sử dụng (Application based on Intent to Use)

Điều §44(d)

 

Đơn dựa trên Đơn đăng ký nước ngoài

(Application based on a

foreign application)

Điều §44(e)

Đơn dựa trên Đăng ký nước ngoài

(Application based on a

foreign registration)

Điều §66(a)

 

Đơn dựa theo đơn đăng ký quốc tế chỉ định Hoa Kỳ (Application based on the Madrid Protocol)

  1. Phải nộp Bằng Chứng Sử Dụng kèm theo bằng chứng sử dụng trước khi hết năm thứ 6 tính từ ngày được USPTO cấp đăng ký để duy trì hiệu lực cho các năm còn lại của 10 năm hiệu lực đầu tiên (Nộp theo Điều 71;

 

  1. Phải nộp Bằng Chứng Sử Dụng kết hợp với Đơn xin gia hạn hiệu lực giữa năm thứ 9 và năm thứ 10 tính từ ngày được USPTO cấp đăng ký để duy trì hiệu lực cho 10 năm hiệu lực tiếp theo (Nộp theo Điều 71& Điều 9);

 

  1. Sau đó, cứ vào giữa năm thứ 9 và năm thứ 10 tính từ ngày được USPTO cấp đăng ký của mỗi kỳ hạn hiệu lực 10 năm, chủ nhãn hiệu phải nộp Bằng Chứng Sử Dụng kết hợp với Đơn xin gia hạn hiệu lực (Nộp theo Điều 71 & Điều 9)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mỹ bảo hộ Chỉ Dẫn Địa Lý theo cách không giống ai

 

Là một thành viên của WTO và Hiệp định TRIPs giống như Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ không có đạo luật hay cơ chế riêng về bảo hộ Chỉ dẫn địa lý (“Geographical Indication” hay còn được gọi tắt là “GI”). Hoa Kỳ cho rằng họ vẫn tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPs về nghĩa vụ bảo hộ Chỉ dẫn địa lý, cụ thể Hoa Kỳ bảo hộ Chỉ dẫn địa lý dưới dạng một loại nhãn hiệu đặc biệt, đó là nhãn hiệu chứng nhận (“certification mark” hoặc “certification trademark”). Dưới đây là một số nội dung pháp lý cơ bản liên quan đến đăng ký bảo hộ Chỉ dẫn địa lý ở Mỹ được chúng tôi giới thiệu.

 

Định nghĩa

 

Nhãn hiệu chứng nhận là một loại nhãn hiệu được sử dụng để chứng minh với người tiêu dùng rằng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể đã đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định. Thanh long Bình Thuận (Việt Nam) và khoai tây Idaho (Mỹ) là 2 nhãn hiệu chứng nhận đang được bảo hộ ở Mỹ.

 

 

 

Nhãn hiệu chứng nhận khác với nhãn hiệu thông thường như thế nào?

 

Như đã nêu trên nhãn hiệu chứng nhận biểu thị rằng hàng hóa/dịch vụ hoặc nhà cung cấp hàng hóa/dịch vụ đó đã đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định trong khi đó nhãn hiệu thông thường là nhãn hiệu có chức năng cung cấp thông tin chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa/dịch vụ của một loại hàng hóa/dịch vụ nào đó

 

Chúng ta hãy xem 2 ví dụ sau được phân tích bởi USPTO (Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ):

 

Nhãn hiệu chứng nhận

 

Nhãn hiệu thông thường

http://bross.vn/image/3(1).png

 

http://bross.vn/image/4(1).jpg

 

Hoover là nhãn hiệu đăng ký dùng cho máy hút bụi có chức năng xác định nguồn gốc thương mại của thị trường máy hút bụi. Trong khi đó Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, viết tắt là EPA (the U.S. Environmental Protection Agency) lại đăng ký nhãn hiệu chứng nhận Energy Star để gắn trên các sản phẩm máy hút bụi thì điều này có nghĩa EPA, tổ chức mà không hề sản xuất hoặc bán máy hút bụi, đã chứng thực rằng máy hút bụi mang thương hiệu HOOVER đã đáp ứng các tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng do EPA quy định

 

Yêu cầu đối với hồ sơ đăng ký nhãn hiệu chứng nhận

 

Theo pháp luật Hoa Kỳ, một bộ hồ sơ được xem là tuân thủ yêu cầu khi có đầy đủ các thông tin sau:

 

  1. Tên và địa chỉ của người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu chứng nhận
  2. Loại hình doanh nghiệp/pháp nhân của người nộp đơn (công ty TNHH 1 thành viên, 2 thành viên, công ty cổ phần,…)
  3. Quốc tịch của người nộp đơn và lãnh thổ người nộp đơn có quốc tịch
  4. Mô tả vắn tắt các yếu tố cấu thành nhãn hiệu chứng nhận bao gồm cả màu sắc và vị trí được thể hiện màu sắc (nếu có)
  5. Bản dịch tiếng Anh hoặc bản phiên âm ngôn ngữ nước ngoài khác với tiếng Anh nếu có trong nhãn hiệu chứng nhận
  6. Một mẫu nhãn hiệu chứng nhận (dưới dạng file ảnh png hoặc jpg)
  7. Phí Chính phủ nộp đơn đăng ký
  8. Chọn căn cứ nộp đơn (filing basis) phù hợp trong số 5 căn cứ gồm: (1) Nhãn hiệu chứng nhận dựa trên căn cứ dự định sử dụng theo Điều §1(b) – application based on Intent to Use in Commerce, (2) Nhãn hiệu chứng nhận dựa trên căn cứ đơn đã nộp ở nước ngoài theo điều Điều §44(d) – application based on a foreign application, (3) Nhãn hiệu chứng nhận dựa trên căn cứ đăng ký đã được cấp bảo hộ ở nước ngoài theo điều Điều §44(e) – application based on a foreign registration, (4) Nhãn hiệu chứng nhận dựa trên căn cứ nhãn hiệu đang được sử dụng ở Hoa Kỳ theo Điều §1(a) – application based on use in commerce, hoặc (5) Nhãn hiệu chứng nhận dựa trên căn cứ đơn quốc tế của Hệ thống Madrid theo Điều §66(a) – application based on the Madrid Protocol.
  9. Danh sách hàng hóa/dịch vụ mà người nộp sẽ hoặc đang chứng nhận
  10. Người nộp đơn phải chỉ rõ phân loại theo pháp luật Mỹ là Class A cho hàng hóa hoặc Class B cho dịch vụ

 

Sự khác biệt của hệ thống bảo hộ Kiểu dáng công nghiệp ở Liên minh Châu Âu


Khác biệt về phạm vi đối tượng bảo hộ
 

EU quy định một KDCN có thể được bảo hộ với tư cách là Kiểu dáng cộng đồng (Community Design, viết tắt là CD) nếu nó mới (new) và có đặc điểm riêng (individual characters).

 

Khác với luật pháp của Việt Nam,  đối tượng có thể được bảo hộ dưới dạng kiểu dáng công nghiệp ở EU được hiểu theo nghĩa rộng hơn, cụ thể là bất kỳ sản phẩm nào dù được thực hiện bằng phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp bao gồm cả bao bì sản phẩm (packaging), biểu tượng đồ họa (graphic symbols), kiểu dáng chữ (typeface) đều có khả năng được bảo hộ với tư cách là kiểu dáng công nghiệp tại Liên minh Châu Âu thông qua cơ quan sở hữu trí tuệ của nó có tên gọi mới là EUIPO (tên gọi cũ là OHIM) gồm 28 nước thành viên. Ví dụ:

Không có văn bản thay thế tự động nào.

Có 2 loại KDCN có thể được bảo hộ ở EU là kiểu dáng cộng đồng đăng ký (registered Commmunity Design, viết tắt là RCD) và kiểu dáng cộng đồng đăng ký không đăng ký (unregistered Commmunity Design, viết tắt là UCD). Đối với RCD thì Quý vị cần phải nộp đơn đăng ký với EUIPO trước khi thương mại hóa sản phẩm mang kiểu dáng đó trong khi đối với UCD thì Quý vị không cần phải đăng ký.

 

Có sự khác biệt đáng kể giữa RCD và UCD, cụ thể đối với RCD thì thời hạn bảo hộ kéo dài cho hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn và có thể gia hạn thêm 4 lần nữa, mỗi lần 5 năm hoặc tổng cộng thời hạn bảo hộ là 25 năm. Trong khi đó, UCD chỉ được bảo hộ trong vòng 3 năm, và không thể gia hạn, tính từ ngày mà kiểu dáng được bộc lộ công khai lần đầu tiên ở lãnh thổ của EU. Hành vi bộc lộ công khai này được hiểu bao gồm công bố công khai một cách có chủ đích

 

Khác biệt về thời điểm mất tính mới

 

Hệ thống bảo hộ KDCN của Việt Nam không chấp nhận KDCN xin đăng ký đã bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc hình thức khác ở trong hoặc ngoài nước tính đến trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên ngoại trừ 3 trường hợp sau với điều kiện đơn xin đăng ký KDCN phải được nộp trong vòng 6 tháng tính từ ngày đã bị bộc lộ/công bố đó[5]:

(a) KDCN bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký;

(b) KDCN được người có quyền đăng ký công bố dưới dạng báo cáo khoa học;

(c) KDCN được người có quyền đăng ký trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức

Quy định trên có nghĩa là Việt Nam áp dụng tiêu chuẩn tính mới tuyệt đối và toàn cầu. Trong khi đó EUIPO chỉ áp dụng tiêu chuẩn tính mới tương đối, cụ thể một CD sẽ được xem là mới nếu không có kiểu dáng trùng nào được công bố công khai:

(a) trong trường hợp UCD, trước ngày mà kiểu dáng xin đã được bộc lộ công khai lần đầu; hoặc

(b) trong trường hợp RCD, trước ngày nộp đơn của đơn xin đăng ký kiểu dáng, hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đó

Kiểu dáng trùng được hiểu là kiểu dáng mà các đặc điểm tạo dáng của nó chỉ khác biệt về chi tiết không đáng kể[6]. Tuy nhiên, bộc lộ công khai như mô tả nêu trên không được áp dụng nếu kiểu dáng xin đăng ký đã được bộc lộ công khai trong vòng 12 tháng trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên

Như vậy quy định trên cho thấy một điều rất thú vị và có lợi cho chủ kiểu dáng của Việt Nam là ngay cả khi kiểu dáng sản phẩm của Quý vị đã được đưa ra thị trường, dù cố tình hay vô ý, trong vòng không quá 1 năm thì nó vẫn có thể nộp đơn xin đăng ký KDCN mà không bị coi là mất tính mới.


Một số đặc trưng khác của UCD và RCD


Hệ thống kiểu dáng ở EU được vận hành tương tự như hệ thống nhãn hiệu cộng đồng (community trademark), theo đó nó cho phép chủ kiểu dáng chỉ bằng một đơn, một ngôn ngữ, một lần trả phí duy nhất có cơ hội sở hữu và độc quyền khai thác các sản phẩm mang kiểu dáng được bảo hộ trên toàn lãnh thổ của 28 nước thành viên thuộc EU.


EU vận hành song song cả 2 cơ chế bảo hộ kiểu dáng là bảo hộ kiểu dáng không đăng ký (UCD) và kiểu dáng đăng ký (RCD), cụ thể UCD cho phép người sở hữu nó ngăn chặn người khác copy y hệt kiểu dáng vào sản phẩm của mình trong thời hạn bảo hộ tối đa là 3 năm kể từ ngày UCD được công bố lần đầu tiên ra công chúng trong khi đó RCD cấp quyền độc quyền lên tới 25 năm nhằm ngăn chặn không chỉ hành vi sao chép y hệt mà sao chép cơ bản RCD cũng có thể bị coi là hành vi xâm phạm quyền độc quyền RCD.


EU không tiến hành xét nghiệm nội dung, tức là không đánh giá liệu kiểu dáng xin đăng ký có đảm bảo tính mới hay không vì vậy nhìn chung hầu hết các đơn đăng ký kiểu dáng đều được cấp bằng độc quyền RCD bởi EUIPO. Trường hợp có phản đối hoặc tranh chấp sau khi RCD đã được đăng ký thì bên liên quan chỉ có thể nộp đơn khởi kiện tại các tòa án quốc gia hoặc tại EUIPO (điều này hoàn toàn khác với Nhãn hiệu Cộng đồng khi mà cho phép bên thứ 3 có thể nộp đơn phản đối trước khi Nhãn hiệu Cộng đồng được cấp đăng ký). Nói một cách khác, bất kỳ bên thứ 3 nào cũng có quyền nộp đơn yêu cầu EUIPO tuyên bố RCD vô hiệu dựa trên căn cứ phổ biến là RCD không có tính mới vào thời điểm nó được nộp cho RCD

Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ vinh@bross.vn hoặc điện thoại 0903 287 057.

Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Bross & Partners có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn sâu hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài bao gồm cả Mỹ, EU, Canada, Trung Quốc, Thailand.

(Xem tiếp Phần 2)


[1] © Lê Quang Vinh. Đây là bài tham luận được chuẩn bị bởi Luật sư Lê Quang Vinh, Giám đốc Công ty cổ phần sở hữu trí tuệ Bross & Cộng sự (Bross & Partners), theo lời mời của Cục Sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ Tọa đàm Quản trị tài sản sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp, cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tổ chức ngày 07/12/2018 tại hội trường tầng 6 Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, Khu công nghệ cao Láng – Hòa Lạc, km 29 Đại lộ Thăng Long, Hà Nội

[5] Xem Điều 65 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi năm 2009

[6] Điều 5 và điều 7(2)(b) COUNCIL REGULATION (EC) No 6/2002 ngày 12/12/2001

 

 

Bookmark and Share
Relatednews
Khi nào không thể hoặc không nên đăng ký thương hiệu ra nước ngoài theo Hệ thống Madrid?
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go