Email: vinh@bross.vn
17. Chế tài hình sự, dân sự, hành chính có được áp dụng khác nhau đối với các hành vi xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ khác nhau không? Nếu không thì pháp luật quy định cụ thể như thế nào để chủ thể quyền có thể nhận biết?
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là rất đa dạng như sao chép, chiếm đoạt, sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu của người khác, sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc tương đương hoặc không khác biệt cơ bản,… được thực hiện bởi cá nhân, tổ chức vi phạm đối với với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác nhau.
Tuy nhiên, chủ thể quyền cần lưu ý một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu nó được thực hiện bởi cá nhân hoặc/và pháp nhân thương mại [1] xâm phạm quyền độc quyền sao chép, quyền độc quyền phân phối quyền tác giả hoặc quyền liên quan, hoặc xâm phạm quyền độc quyền nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý (nhưng chỉ khi là nhãn hiệu giả mạo hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo) [2]
Như vậy, các hành vi xâm phạm còn lại chẳng hạn như xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng, xâm phạm nhãn hiệu thông thường (tức là không phải là hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ) hoặc các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,… chỉ có thể bị áp dụng chế tài dân sự (khởi kiện dân sự có/không có kèm theo đòi bồi thường thiệt hại), hoặc chế tài hành chính (bị xử phạt hành chính). Trong thực tiễn, có đến 98% vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hàng năm đều được xử lý bằng biện pháp hành chính.
18. Quá trình khởi kiện kéo dài bao lâu và chi phí liên quan như thế nào?
Chi phí thông thường cho một vụ kiện về sở hữu trí tuệ tại tòa án bao gồm lệ phí tòa án, phí luật sư và một số chi phí khác như dịch thuật, công chứng, hợp pháp hóa lãnh sự và giám định. Chi phí này có thể dao động từ vài chục triệu đồng cho đến vài trăm triệu đồng tùy thuộc vào tính chất phức tạp của vụ việc và mức độ danh tiếng của luật sư.
Mặc dù về lý thuyết theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thời hạn tối đa để Tòa án xét xử, quyết định một vụ kiện là 2 tháng tính từ ngày thụ lý đơn khởi kiện, song vì nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn như luật không có quy định về thời hạn xét xử đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, hoặc tùy thuộc vào mức độ bận rộn của mỗi tòa án, hoặc phụ thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của thẩm phán mà trên thực tế có thể mất từ 6 đến 12 tháng hoặc thậm chí có thể lâu hơn để nhận được bản án sơ thẩm.
19. Nêu vắn tắt thẩm quyền của tòa án, thủ tục và căn cứ khởi kiện, thời hạn xét xử, hình thức xét xử, bao lâu có bản án hoặc quyết định của tòa án, đương sự có thể kháng cáo?
Hiện tại Việt Nam chưa thành lập tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ dẫn hệ quả là các vụ án liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ được thụ lý và xét xử như thể là việc, vụ việc dân sự hoặc thương mại thông thường, theo đó thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về tòa án cấp huyện và tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Cần lưu ý trường hợp mục đích lợi nhuận đều được hướng tới bởi cả nguyên đơn và bị đơn, hoặc tranh chấp có yếu tố nước ngoài (nguyên đơn hoặc bị đơn là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài) thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm luôn luôn thuộc về tòa án cấp tỉnh.
Thẩm quyền theo lãnh thổ của tòa án được xác định theo nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn (nếu là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở (nếu là pháp nhân, tổ chức). Hình thức xét xử ở Việt Nam hiện tại vẫn theo cách truyền thống, tức là xét xử trực tiếp và bằng lời nói. Các hình thức xét xử khác như tòa án điện tử (xét xử không cần sự có mặt của đương sự) hay các hình thức xét xử khác như cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền dựa trên Chính Sách Thống Nhất Giải Quyết Tranh Chấp Tên Miền (UDRP) của ICANN đều chưa có ở Việt Nam.
Thời hạn để thụ lý đơn khởi kiện: 5 ngày làm việc. Thời hạn xét xử sơ thẩm: 2 tháng tính từ ngày thụ lý đơn khởi kiện. Tuy vậy trên thực tế có thể mất từ 6-12 tháng hoặc lâu hơn mới có bản án hoặc quyết định sơ thẩm tùy thuộc vào mức độ bận rộn của các tòa án, tính chất phức tạp của vụ án hoặc trình độ của thẩm phán.
Luật sở hữu trí tuệ có quy định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được hiểu là biện pháp khẩn cấp, được Tòa án đưa ra cùng lúc hoặc sau khi khởi kiện và trước khi nghe ý kiến phản đối của bên mà bị ảnh hưởng bởi biện pháp đó nếu một trong những trường hợp sau đây xảy ra:
(a) Có nguy cơ thiệt hại không thể khắc phục đối với chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ;
(b) Hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc có bằng chứng liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có khả năng bị phân tán tiêu hủy trừ khi được bảo vệ kịp thời.
Sau khi bản án sơ thẩm được ban hành, một trong các đương sự, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày phán quyết, được quyền kháng cáo. Trong trường hợp kháng cáo chống lại quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ ban hành bởi tòa án cấp sơ thẩm thì thời hạn khiếu nại là 7 ngày kể từ ngày người kháng cáo nhận được quyết định.
20. Hàng hóa nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị ngăn chặn nhập khẩu, xuất khẩu ở các cửa khẩu hải quan được hay không? Thủ tục hải quan dừng thông quan hàng hóa nghi ngờ xâm phạm được xuất khẩu hoặc nhập khẩu được quy định như thế nào?
Có. Kiểm soát biên giới liên quan đến sở hữu trí tuệ ở Việt Nam về cơ bản và chủ yếu chỉ liên quan đến bảo vệ quyền độc quyền đối với nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sản phẩm được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và chỉ dẫn địa lý vì lý do năng lực còn nhiều hạn chế của lực lượng hải quan Việt Nam.
Theo Luật Hải quan năm 2014, trung tâm tiếp nhận yêu cầu kiểm soát biên giới về quyền sở hữu trí tuệ là Cục Giám sát Quản lý về hải quan thuộc Tổng cục Hải quan (thuộc Bộ Tài chính). Yêu cầu kiểm soát biên giới sau khi được thụ lý bởi Cục Giám sát Quản lý sẽ được chuyển tới mạng lưới hải quan cấp dưới hoặc các Cục hải quan trên toàn quốc bao gồm cả Cục điều tra chống buôn lậu.
Có 2 loại yêu cầu kiểm soát biên giới quyền sở hữu trí tuệ hiện đang được Tổng cục Hải quan chấp nhận:
(a) yêu cầu áp dụng kiểm tra và giám sát để phát hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có hiệu lực trong vòng 2 năm; và/hoặc
(b) yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan nơi hàng hóa nhập khẩu hoặc xuất khẩu cho thấy có thể vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Theo Thông tư 13/2015/TT-BTC ngày 30 tháng 1 năm 2015, thủ tục yêu cầu tạm dừng thông quan có thể được tóm tắt như sau:
a. Cơ quan hải quan phải thông báo cho chủ thể quyền, người đã được đăng ký với tư cách là chủ thể quyền quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ ở Việt Nam với Cục Giám sát Quản lý, khi phát hiện hàng hóa nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và phải yêu cầu chủ thể quyền nộp các tài liệu liên quan gồm cả văn bằng bảo hộ, mô tả chi tiết hàng chính hãng và hàng hóa vi phạm, hướng dẫn cách nhận biết hàng thật, hàng giả cùng với khoản bảo lãnh bởi tổ chức tín dụng bằng 20% giá trị của lô hàng theo hợp đồng, hoặc ít nhất 20 triệu đồng nếu không xác định được giá trị của lô hàng bị nghi ngờ. Khoản bảo lãnh này dùng để bồi hoàn các chi phí phát sinh trong trường hợp việc yêu cầu kiểm soát biên giới bởi chủ thể quyền được kết luận là không đúng.
b. Nếu hồ sơ đã nộp được xem là hợp lệ, trong vòng 2 giờ, cơ quan hải quan sẽ ban hành quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan. Quyết định này có hiệu lực trong vòng 10 ngày làm việc (có thể gia hạn thêm 10 ngày làm việc nếu có lý do chính đáng kèm theo một khoản bảo lãnh mới)
(c) Trong thời gian tạm dừng làm thủ tục hải quan, cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan phải làm các việc sau:
(i) Yêu cầu chủ thể quyền cung cấp tài liệu liên quan gồm kết luận giám định, catalog, kết luận/quyết định khác giải quyết trường hợp tương tự
(ii) Tiến hành trưng cầu giám định cơ quan chuyên môn để xác định yếu tố xâm phạm
(iii) Trích xuất, lưu trữ mẫu của hàng hóa nghi ngờ vi phạm
(iv) Liên lạc hoặc phối hợp với các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ khác
(d) Sau khi hết thời hạn tạm đình chỉ, cơ quan hải quan đã ra quyết định tạm đình chỉ có trách nhiệm thực hiện một trong các hành động sau: quyết định thụ lý vụ việc theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính, quyết định tạm giữ hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chuẩn bị và xử lý người vi phạm bằng biện pháp hành chính hoặc giải phóng hàng hóa bị nghi ngờ trong trường hợp không vi phạm (cho phép thông quan).
21. Chủ thể quyền có thể lựa chọn cách xử lý khác đối với hành vi xâm phạm ngoài biện pháp tư pháp là khởi kiện tại tòa án hay không? Có buộc phải theo cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc nào khác không?
Ở đây chúng ta nên nhận biết và phân biệt sự khác nhau căn bản giữa tranh chấp sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tranh chấp sở hữu trí tuệ có nghĩa là tranh chấp giữa hai hoặc nhiều bên về một hoặc một số quyền sở hữu trí tuệ mà mỗi bên đều cho rằng họ có quyền và bị bên kia xâm phạm. Trong khi đó hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thường có tính chất rõ ràng, hiển nhiên hơn ví dụ như sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu.
Các hành vi xâm phạm tùy theo tính chất, mức độ có thể bị chủ thể quyền yêu cầu xử lý bằng biện pháp hành chính (ngoài biện pháp khởi kiện dân sự, hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự) mà theo đó hiếm khi xảy ra tình huống các chủ thể quyền và bên xậm phạm lại đàm phán hoặc đồng ý đưa vụ việc ra trọng tài hoặc hòa giải. Đối với tranh chấp sở hữu trí tuệ, các bên có thể đi đến lựa chọn biện pháp tự thương lượng, hòa giải hoặc đưa vụ việc ra trọng tài.
22. Chủ thể quyền có những lựa chọn nào để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ?
Các bên có thể giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ thông qua việc khởi kiện tại Tòa án hoặc yêu cầu cơ quan thực thi (cơ quan hành chính) xử lý dưới hình thức xử phạt vi phạm hành chính, hoặc có thể đưa vụ việc ra trọng tài nếu cả 2 bên cùng ký thỏa thuận trọng tài (ví dụ như VIAC chẳng hạn), hoặc các bên có thể chọn cách giải quyết ngoài tòa án, hoặc ký kết thỏa thuận đồng tồn tại trên cơ sở thương lượng và thỏa hiệp giữa các bên.
23. Làm thế nào chứng minh được hành vi xâm phạm mỗi loại quyền sở hữu trí tuệ đã nêu trên? Bằng chứng gì bắt buộc phải có để chứng minh hành vi xâm phạm?
Pháp luật Việt Nam áp dụng một quy tắc chung gồm 4 tiêu chí để xác định sự tồn tại của hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:
(a) đối tượng bị nghi ngờ xâm phạm thuộc phạm vi bảo hộ của một loại quyền sở hữu trí tuệ;
(b) có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị nghi ngờ xâm phạm;
(c) người bị cáo buộc xâm phạm không phải là chủ sở hữu của quyền sở hữu trí tuệ và cũng không phải là người được ủy quyền sử dụng hoặc khai thác quyền sở hữu trí tuệ; và
(d) hành vi bị nghi ngờ xâm phạm xảy ra tại Việt Nam.
Tiêu chí (b) đóng vai trò quan trọng nhất. Tiêu chí quan trọng này được nêu chi tiết hơn trong Nghị định 105/2006/NĐ-CP sửa đổi cho mỗi loại đối tượng quyền sở hữu trí tuệ khác nhau như quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế hoặc nhãn hiệu. Ví dụ: hành vi nghi ngờ xâm phạm được xác định là xâm phạm bằng độc quyền sáng chế nếu sản phẩm hoặc bộ phận (thành phần) của sản phẩm giống hệt hoặc tương đương với sản phẩm hoặc bộ phận (thành phần) của sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ của sáng chế đó.
Còn nữa…
Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.
________________________________________
[1] Khoản 1 Điều 75 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên” trong khi đó khoản 1 điều 76 quy định “pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên”.
[2] Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ
1. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hóa sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.
Hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ theo điều 213 Luật sở hữu trí tuệ nêu trên là 1 trong 8 loại “hàng giả” theo khoản 8 điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, quy định rằng hàng giả gồm: g) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.