Tội phạm sở hữu công nghiệp trong pháp luật hình sự Việt Nam: Xác định cấu thành tội phạm theo Điều 226
Luật sư Lê Quang Vinh – Bross & Partners
Email: vinh@bross.vn
Để thực hiện cam kết quốc tế của mình ở Hiệp định TRIPs và CPTPP[1] về xử lý hình sự đối với giả mạo nhãn hiệu (trademark counterfeiting) và sao chép lậu (copyright piracy), Việt Nam xác định một số hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là tội phạm quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể gồm Điều 225 – tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, và Điều 226 - tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 (BLHS 2015), Bross & Partners dưới đây phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản để định tội theo Điều 226.
Lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Cấu thành tội phạm (CTTP) là cơ sở pháp lý duy nhất để định tội vì luật hình sự quy định tội phạm bằng cách mô tả các dấu hiệu của hành vi phạm tội, từ cơ sở pháp lý đó, các nhà lý luận mới khái quát thành các dấu hiệu đặc trưng chung gọi là CTTP.[2] BLHS 2015 không định nghĩa CTTP. Giới nghiên cứu lý luận về hình sự định nghĩa CTTP là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS 2015, cụ thể CTTP phải hội đủ gồm 4 yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan, và mặt chủ quan của tội phạm.[3]
Cấu thành tội phạm của Điều 226 BLHS 2015
-
Chủ thể của tội phạm: Tương tự như tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, chủ thể tội phạm theo Điều 226 không phải là chủ thể đặc biệt, có nghĩa là chủ thể của tội phạm này là cá nhân bất kỳ ai từ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội phạm này cũng bao gồm cả pháp nhân thương mại (như định nghĩa ở Điều 75 BLDS 2015).
-
Khách thể của tội phạm: Tương tự như Điều 225, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 226 được nhà làm luật xếp vào nhóm tội phạm khác về xâm phạm trật tự kinh tế, chứ không cùng thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, thương mại (chẳng hạn như các tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo các Điều từ 192-195). Như vậy, xét về mặt phân loại khách thể của tội phạm, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng cùng khách thể chung và khách thể loại với nhóm tội sản xuất, buôn bán hàng giả nhưng khác về khách thể trực tiếp.
Đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ nhưng chỉ giới hạn ở 2 hình thức bảo hộ pháp lý là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý có bản chất khác với hành vi giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý trong khi pháp luật hình sự chỉ xử lý hình sự đối với hành vi giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý. Như vậy, giả mạo nhãn hiệu hoặc giả mạo chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu bắt buộc ở khách thể của tội phạm. Để xác định hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý cần phải đánh giá kỹ 4 yếu tố thuộc nội hàm của Điều 213 Luật SHTT 2022.[4]
Khác với nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự về 2 tội: tội xâm phạm quyền tác giả, và tội xâm phạm quyền liên quan nếu cả 2 hình thức bảo hộ này bị xâm phạm theo Điều 225, chúng tôi cho rằng không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự về 2 tội: tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (đối với nhãn hiệu) và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (đối với chỉ dẫn địa lý) mặc dù nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là 2 hình thức bảo hộ pháp lý độc lập được quy định ở Luật SHTT 2022 vì Điều 226 BLHS 2015 chỉ xác định 1 tội duy nhất là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
-
Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm này là thực hiện là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam. Tuy nhiên, dấu hiệu pháp lý bắt buộc ở đây phải là hàng hóa mang nhãn hiệu giả mạo hoặc mang chỉ dẫn địa lý giả mạo. Trường hợp chỉ xác định được hàng hóa xâm phạm nhãn hiệu hoặc xâm phạm chỉ dẫn địa lý mà không phải là giả mạo theo Điều 213 Luật SHTT thì không thỏa mãn mặt khách quan của tội này.
Cần lưu ý thêm là tội phạm này có cấu thành vật chất, nghĩa là hậu quả xảy ra cũng là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Hậu quả ở đây được hiểu là hành vi được tiến hành trên “quy mô thương mại”[5]. Tương tự như Điều 225, nhà làm luật không giải thích thế nào là quy mô thương mại mà chỉ đưa thêm các dấu hiệu pháp lý ngay sau cụm từ quy mô thương mại gồm các dạng hậu quả khác nhau do tội phạm gây ra dưới dạng ngưỡng thiệt hại vật chất (ngụ ý tương đương với quy mô thương mại) được quy thành tiền, gồm thu lợi bất chính tối thiểu 100 triệu đồng, gây thiệt hại cho chủ thể quyền từ 200 triệu đồng trở lên, hoặc hàng hóa vi phạm trị giá tối thiểu 200 triệu đồng.
-
Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp), nghĩa là nhận thức rõ hành vi của mình là gắn các dấu hiệu hàng hóa hoặc bao bì của hàng hóa theo cách trùng hoặc tương tự tới mức khó phân biệt với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ thể quyền, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra, hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra. Nói cách khác, việc sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức khó phân biệt đó có thể dễ dàng làm người tiêu dùng ngay lập tức nhầm tưởng rằng hàng hóa đó có cùng nguồn gốc thương mại với hàng hóa mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý được bảo hộ. Tương tự như Điều 225, mục đích kinh doanh không phải là dấu hiệu bắt buộc của Điều 226.
Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là một trong các tội mà BLHS 2015 quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Để buộc tội pháp nhân thương mại, CQTHTT phải chứng minh được hành vi của pháp nhân thương mại thông qua người đại diện theo pháp luật của nó cùng lúc thỏa mãn 4 điều kiện: (1) hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; (2) hành vi phạm vi được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; (3) hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; và (4) chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các trường hợp phạm tội cụ thể theo Điều 226
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có 2 khung hình phạt chính áp dụng cho cá nhân phạm tội và pháp nhân thương mại. Cá nhân phạm tội theo khung 1 (thuộc cấu thành tội phạm cơ bản) bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền từ 50 triệu đến 500 triệu đồng hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm nếu thiệt hại do hậu quả của tội phạm xảy ra có quy mô thương mại, hoặc người phạm tội thu lợi bất chính từ 100 triệu đến dưới 300 triệu, hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền từ 200 triệu đến dưới 500 triệu, hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200 triệu đến dưới 500 triệu.
Nếu xuất hiện một trong 5 tình tiết tăng nặng dưới đây thì người phạm tội cá nhân bị tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khung 2, cụ thể là bị phạt tiền từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
(a) Phạm tội có tổ chức (có đồng phạm và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm)
b) Phạm tội 02 lần trở lên.
c) Thu lợi bất chính 300 triệu đồng trở lên.
d) Gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý 500 triệu đồng trở lên.
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500 triệu đồng trở lên.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội cá nhân còn có thể bị phạt bổ sung gồm phạt tiền (nếu hình phạt chính không phải là phạt tiền) từ 20 triệu đến 200 triệu, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.
Pháp nhân thương mại có thể bị xem là phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp một cách độc lập với người phạm tội cá nhân, cụ thể nó có thể bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền từ 500 triệu đến 2 tỷ đồng nếu thiệt hại vật chất (hậu quả) gây ra đạt ngưỡng tối thiểu quy thành tiền, gồm:
-
Thu lợi bất chính từ 200 triệu đến dưới 300 triệu, hoặc thu lợi bất chính từ 100 triệu đến dưới 200 triệu nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định ở điều luật này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc
-
Gây thiệt hại cho chủ thể quyền từ 300 triệu đến dưới 500 triệu, hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đến dưới 300 triệu nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định ở điều luật này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc
-
Hàng hóa vi phạm trị giá từ 300 triệu đến 500 triệu, hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100 triệu đến dưới 300 triệu nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định ở điều luật này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trường hợp người phạm tội cá nhân thỏa mãn cấu thành tội phạm định khung tăng nặng theo khung 2 Điều 226 BLHS thì pháp nhân thương mại (nếu được xác định vẫn thỏa mãn 4 điều kiện theo Điều 75 BLHS 2015) cũng bị tăng hình phạt theo điểm b khoản 4 Điều 226 BLHS 2015, cụ thể bị phạt tiền từ 2 tỷ đến 5 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm.
Ngoài ra, pháp nhân thương mại còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung gồm phạt tiền từ 100 triệu đến 500 triệu (nếu hình phạt chính không áp dụng hình phạt tiền), cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực từ 1 đến 3 năm.
Bross & Partners, một công ty sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất (Tier 1) bởi Tạp chí Legal 500 Asia Pacific, có kinh nghiệm tranh tụng dân sự và hình sự liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; mobile: 0903 287 057; Zalo: +84903287057; Skype: vinh.bross; Wechat: Vinhbross2603.
[1] Xem Điều 61 Hiệp định TRIPs và Điều 18.77 Hiệp định CPTPP.
[2] TS. Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, 2008, Trường Đại học Cần Thơ, trang 17-18
[4] Điều 213 Luật SHTT 2022. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ
1. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý, hàng hóa sao chép lậu quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
2. Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu hoặc dấu hiệu hoặc tem, nhãn có chứa các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với nhãn hiệu đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu.
3. Hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn dấu hiệu hoặc tem, nhãn có chứa các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó và việc gắn dấu hiệu này được thực hiện bởi tổ chức, cá nhân không có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý theo quy định tại khoản 4 Điều 121 của Luật này hoặc theo pháp luật của nước xuất xứ của chỉ dẫn địa lý đó.
4. Hàng hóa sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan
[5] “Quy mô thương mại” được dịch từ thuật ngữ gốc tiếng Anh “on a commercial scale” được nêu ở Điều 61 Hiệp định TRIPs quy định rằng nước thành viên WTO phải xử lý hình sự đối với hành vi “sao chép lậu” [copyright piracy] quyền tác giả, quyền liên quan và giả mạo nhãn hiệu với quy mô thương mại