Tiếng Việt English  
Home Our People Experiences Associations Contact us
PHẢN BIỆN DỰ THẢO 5 SỬA ĐỔI LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI ỦY BAN PHÁP LUẬT QUỐC HỘI (PHẦN I)
(Ngày đăng: 2021-09-05)

PHẢN BIỆN DỰ THẢO 5 SỬA ĐỔI

LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI ỦY BAN PHÁP LUẬT QUỐC HỘI (PHẦN I)

 

Email: vinh@bross.vn

 

Luật sư Lê Quang Vinh – Bross & Partners vinh dự được mời trình bày tham luận tại Hội thảo trực tuyến sáng ngày 28/08/2021 do Ủy ban pháp luật của Quốc Hội tổ chức.[1] Đễ dễ theo dõi, chúng tôi tạm chia bài trình bày 11 nội dung thành 5 phần.

 

Phần 1/5: Công nhận nhãn hiệu nổi tiếng[2] được sửa đổi, bổ sung khoản 20 Điều 4, điểm i khoản 2 Điều 74 và Điều 75 trong Dự Thảo 5

 

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là chống lại nguyên tắc: giới hạn quyền theo lãnh thổ, xác lập quyền dựa trên cơ sở phải đăng ký, và nộp đơn đầu tiên

 

Chức năng của nhãn hiệu là để giúp công chúng phân biệt được nguồn gốc thương mại của các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu chính là công cụ pháp lý để vừa giúp bảo vệ công chúng không nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại vừa giúp bảo vệ thành quả đầu tư của doanh nghiệp, theo đó bảo hộ nhãn hiệu có nghĩa là bảo hộ chống khả năng gây nhầm lẫn xảy ra nếu đồng thời thỏa mãn hai điều kiện là sự trùng/tương tự giữa các nhãn hiệu và sự trùng/tương tự của sản phẩm mang các nhãn hiệu đó.

 

Tuy nhiên, nếu một nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì câu chuyện lại hoàn toàn khác. Nói khác đi, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trở thành ngoại lệ của quy tắc chung về ngăn chặn khả năng gây nhầm lẫn nêu trên vì nhãn hiệu nổi tiếng không cần đăng ký (ngoại lệ của ba nguyên tắc: giới hạn quyền theo lãnh thổ, xác lập quyền dựa trên cơ sở phải đăng ký, và nộp đơn đầu tiên)[3] và phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu nổi tiếng rộng hơn nhiều so với nhãn hiệu thông thường (không nhất thiết yêu cầu sản phẩm mang các nhãn hiệu phải trùng/tương tự)[4].

 

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là nghĩa vụ đối với Việt Nam để tuân thủ Công ước Paris (Điều 6bis) và Hiệp định TRIPs (Điều 16). Tuy nhiên, vì bản chất bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là bảo hộ cho trạng thái trở nên nổi tiếng của nhãn hiệu[5] hơn là bảo hộ cho một loại nhãn hiệu (nhãn hiệu có thể phân loại thành nhiều loại như nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu 3 chiều, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu được thừa nhận và sử dụng rộng rãi,…).

 

Bản chất của nhãn hiệu nổi tiếng

 

Tuy cùng có chức năng chỉ dẫn nguồn gốc thương mại của một sản phẩm như nhãn hiệu thông thường nhưng nhãn hiệu nổi tiếng khác biệt ở chỗ nó luôn chứa cùng lúc 3 thuộc tính khách quan (a) biết đến bởi công chúng với tư cách là nguồn gốc thương mại, (b) phạm vi biết đến ở mức độ cao, và (c) danh tiếng gắn liền với sản phẩm/dịch vụ. 3 thuộc tính này giúp một nhãn hiệu vượt ra ngoài thuộc tính của nhãn hiệu thông thường là chức năng phân biệt nguồn gốc thương mại (thường mang đặc tính tĩnh) phát triển thành đặc tính động thể hiện ở uy tín, danh tiếng của sản phẩm hoặc năng lực dẫn dắt một phân khúc thị trường nào đó. Sự có mặt của đặc tính động làm cho một nhãn hiệu có thể nổi tiếng ở thị trường này nhưng lại có thể không đủ làm cho nó nổi tiếng ở thị trường khác, hoặc tùy vào tình hình kinh doanh/bối cảnh thị trường một nhãn hiệu nổi tiếng cũng có thể trở thành nhãn hiệu thông thường khi đặc tính (b) và (c) bị suy giảm hoặc biến mất. Như vậy, bản chất của nhãn hiệu nổi tiếng thực chất không phải là một loại nhãn hiệu đặc biệt mà chỉ là một tình trạng hoặc trạng thái nổi tiếng gắn liền với một thời điểm cụ thể cho một loại hàng hóa/dịch vụ cụ thể.

 

Hạn chế của Dự Thảo 5

 

Dự Thảo 5 chưa giải quyết được 6 hạn chế sau liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng:

(a) Bỏ sót nhãn hiệu nổi tiếng không đăng ký[6];

(b) Cơ quan có thẩm quyền dễ tùy tiện khi ”tự phong” nhãn hiệu có trước là nổi tiếng để từ chối nhãn hiệu nộp sau mà không tuân thủ quy tắc pháp luật quy định về chứng cứ và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng;

(c) Đánh đồng phạm vi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là như nhau;

(d) Thiếu vắng nguyên tắc xác định thời điểm nhãn hiệu có trước bắt đầu nổi tiếng ở điểm d khoản 1 Điều 129 dẫn đến sai lầm cấp bảo hộ quá rộng và không đúng bản chất khách quan của nhãn hiệu nổi tiếng;

(e) Hậu quả “gây ấn tượng sai lệch” là chưa đủ để kết luận hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng trong trường hợp nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm sử dụng cho hàng hóa/dịch vụ không trùng/không tương tự mà bắt buộc phải có thêm yếu tố “lợi ích của chủ nhãn hiệu nổi tiếng có thể bị thiệt hại do hành vi sử dụng đó”[7]; và

(f) Chế định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mất cân đối, nghiêng về bảo vệ lợi ích cho chủ thể quyền nhiều hơn là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, chưa đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích nêu trên.[8]

 

Đề xuất


Đề xuất thứ nhất: Loại bỏ điểm i khoản 2 điều 74 (bảo hộ NHNT trong thủ tục xác lập quyền) và điểm d khoản 1 điều 129 (bảo hộ NHNT trong thực thi quyền) và xây dựng bổ sung điều 75a trong đó quy định các nguyên tắc chung về bảo hộ NHNT trong xác lập và thực thi quyền, nguyên tắc bảo hộ thụ động và căn cứ pháp lý theo theo Công ước Paris, Hiệp định TRIPs và Khuyến nghị chung của WIPO về các quy định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định ở Điều 18.22 CPTPP và Điều 12.20 EVFTA

 

Điều 75a. Nguyên tắc bảo hộ NHNT

1. Nếu bất kỳ nhãn hiệu nào được biết tới rộng rãi bởi công chúng liên quan tại Việt Nam bị xâm phạm thì chủ nhãn hiệu đó có thể thực hiện các quy định có liên quan của luật này để yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu được cho là nổi tiếng đó.

2. Việc xem xét công nhận NHNT chỉ được tiến hành trên cơ sở có yêu cầu của các bên liên quan và dựa trên thông tin, tài liệu và chứng cứ của mỗi vụ việc.

3. Trong quá trình thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu, yêu cầu chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu mà có đơn yêu cầu của một trong các bên liên quan yêu cầu công nhận NHNT theo Điều 75a của Luật này thì Cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ có thể, tùy theo sự việc và các bằng chứng cụ thể của vụ việc đó, xem xét công nhận hoặc không công nhận nhãn hiệu trong vụ việc là nổi tiếng

4. Trong quá trình xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hoặc các tranh chấp khác liên quan đến nhãn hiệu, các bên liên quan, phù hợp với quy định của Điều 75a, có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền[9] theo quy định tại Điều 200 Luật này công nhận hoặc không công nhận nhãn hiệu trong vụ việc là nổi tiếng.

5. Trong quá trình xét xử các tranh chấp dân sự hoặc hành chính liên quan đến nhãn hiệu, các bên liên quan có thể yêu cầu tòa án có thẩm quyền, tùy theo sự việc và các bằng chứng cụ thể của vụ việc đó, xem xét công nhận hoặc không công nhận nhãn hiệu trong vụ việc là nổi tiếng

6. Trường hợp dấu hiệu xin đăng ký là bản sao, bản bắt chước hoặc bản dịch của NHNT của bên thứ ba mà NHNT này chưa được đăng ký ở Việt Nam mà hàng hóa/dịch vụ gắn liền với chúng trùng hoặc tương tự, và với điều kiện có thể gây nhầm lẫn cho công chúng và gây thiệt hại đến lợi ích của chủ NHNT thì dấu hiệu xin đăng ký đó phải bị từ chối và việc sử dụng nó trong thương mại sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với NHNT.

7.Trường hợp dấu hiệu xin đăng ký là bản sao, bản bắt chước hoặc bản dịch của NHNT của bên thứ ba mà NHNT này đã đăng ký ở Việt Nam mà hàng hóa/dịch vụ gắn liền với chúng không trùng hoặc không tương tự, và với điều kiện có thể gây ấn tượng sai lệch cho công chúng và làm tổn hại đến lợi ích của chủ NHNT thì dấu hiệu xin đăng ký đó phải bị từ chối và việc sử dụng nó trong thương mại sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với NHNT.

 

Đề xuất thứ hai: Bổ sung cụm từ “có danh tiếng” vào khoản 20 điều 4 khi đó Dự Thảo 5 sửa lại thành: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu có danh tiếng được người tiêu dùng có liên quan biết đến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam”. Nếu không có thuộc tính “có danh tiếng” trong định nghĩa ở điều 4.20 thì vừa không phân định được ranh giới pháp lý giữa nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi theo điểm g khoản 2 điều 74 Luật SHTT[10] và vừa dễ gây nhầm lẫn giữa 2 đối tượng này.

 

Đề xuất thứ ba: Giảm về 5 tiêu chí thay vì 8 tiêu chí ở Điều 75 vì 8 tiêu chí hiện tại quy định nghĩa vụ chứng cứ quá lớn đối với bên có yêu cầu công nhận NHNT và cũng dễ gây hiểu nhầm trong quá trình thu thập chứng cứ và đánh giá quyết định NHNT, chẳng hạn như số lượng người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu thường được hiểu là yêu cầu một con số cụ thể số lượng người tiêu dùng biết đến. Tôi cũng đề xuất dùng từ yếu tố thay thế cho từ tiêu chí để đảm bảo chính xác hơn, theo đó, điều 75 nên được sửa đổi như sau:

 

Điều 75 (sửa đổi). Các yếu tố phải xem xét trước khi công nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng

(1)        Mức độ biết đến hoặc công nhận nhãn hiệu bởi bộ phận công chúng có liên quan

(2)        Thời gian, quy mô và khu vực địa lý của bất kỳ hoạt động sử dụng, quảng bá nhãn hiệu bao gồm quảng cáo hoặc quảng bá, giới thiệu tại các triển lãm, hội chợ đối với hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu

(3)        Thời gian và khu vực địa lý mà nhãn hiệu đã được đăng ký và/hoặc đã được nộp đơn đăng ký

(4)        Hồ sơ thực thực thi thành công quyền độc quyền nhãn hiệu, đặc biệt là phạm vi mà nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng bởi cơ quan có thẩm quyền

(5)        Giá trị gắn liền với nhãn hiệu.

 

Xem Phần 2/5 ở đây: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/PHAN-BIEN-DU-THAO-5-SUA-DOI--LUAT-SO-HUU-TRI-TUE-TAI-UY-BAN-PHAP-LUAT-QUOC-HOI-PHAN-2

 

Bross & Partners, một công ty sở hữu trí tuệ được xếp hạng Nhất (Tier 1) năm 2021 bởi Tạp chí Legal 500 Asia Pacific, có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ bao gồm nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế, giống cây trồng ở Việt Nam và nước ngoài.

 

Vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; mobile: 0903 287 057; Zalo: +84903287057; Skype: vinh.bross; Wechat: Vinhbross2603.

 

 


[1] Sáng ngày 28/08/2021, Ông Hoàng Thanh Tùng - Ủy viên TW Đảng - Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội chủ trì và điểu khiển Hội thảo trực tuyến về góp ý và phản biện Dự Thảo 5 sửa đổi Luật SHTT lần đầu được thẩm tra bởi Ủy ban pháp luật của Quốc Hội và Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Hội thảo có sự tham gia của đại biểu Quốc Hội đại diện cho Ủy ban Tư pháp, Ủy ban KHCN và Môi trường, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính Ngân sách, Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Văn hóa Giáo dục; đại diện của Văn phòng Chính phủ, Bộ KHCN, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, Bộ NNPTNT, Cục SHTT, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan giám định sở hữu công nghiệp (VIPRI). Xem thêm: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=58283

[2] Bài viết có trích dẫn, sử dụng một số nội dung thuộc Báo cáo nghiên cứu 190 trang về nhãn hiệu nổi tiếng do INTA và Bộ KHCN tài trợ thuộc Dự án nghiên cứu nhãn hiệu nổi tiếng đã công bố năm 2017 bởi Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật.

[3] Điều 6 Luật SHTT. Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ

3. Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:

a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.

Điều 90. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên

2. Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng ký các nhãn hiệu trùng dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.

[4] Điều 74. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu

2. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

i) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;

Điều 129. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý

1. Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:

d) Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

[5] Xem thêm Bản chất pháp lý của Nhãn Hiệu Nổi Tiếng và bình luận chế định Nhãn Hiệu Nổi Tiếng trong Luật sở hữu trí tuệ hiện hành” ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Ban-chat-phap-ly-cua-Nhan-Hieu-Noi-Tieng-va--binh-luan-che-dinh-Nhan-Hieu-Noi-Tieng-trong-Luat-so-huu-tri-tue-hien-hanh-1918 được trích một phần từ Báo cáo nghiên cứu 190 trang về nhãn hiệu nổi tiếng do INTA và Bộ KHCN tài trợ thuộc Dự án nghiên cứu nhãn hiệu nổi tiếng đã công bố năm 2017 ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/DOC-THAM-KHAO-BAO-CAO-NGHIEN-CUU--NHAN-HIEU-NOI-TIENG-O-VIET-NAM-%E2%80%93-THUC-TRANG-VA-GIAI-PHAP-1679.

[6] Nhãn hiệu nổi tiếng không đăng ký ở đây có nghĩa là nhãn hiệu này không có mặt trong đăng bạ quốc gia về nhãn hiệu ở Việt Nam (ví dụ nó được đăng ký ở lãnh thổ khác chứ không nộp đơn đăng ký ở Việt Nam). Nhãn hiệu nổi tiếng đã đăng ký có nghĩa là nhãn hiệu đã đăng ký trong đăng bạ quốc gia về nhãn hiệu ở Việt Nam và được công nhận là nổi tiếng

[7] Ở Hoa Kỳ, yếu tố “lợi ích của chủ nhãn hiệu nổi tiếng có thể bị thiệt hại do hành vi sử dụng đó” được tòa án phán quyết rằng hành vi lợi dụng hoặc gây tổn hại đến đặc tính phân biệt (ở Mỹ gọi là hành vi làm lu mờ (dilution) của nhãn hiệu nổi tiếng chỉ thành công khi và chỉ khi nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng phải được biết tới rộng rãi bởi công chúng đại chúngtình trạng nổi tiếng phải đạt được trước ngày nộp đơn/ngày sử dụng của nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng thông qua vụ kiện Coach Services, Inc. vs. Triumph Learning LLC. Ở Liên Minh Châu Âu, yêu cầu ngăn chặn hành vi xâm phạm nhãn hiệu hiệu nổi tiếng đòi hỏi phải có bằng chứng thay đổi tập tính kinh tế của người tiêu dùng như trong vụ kiện Intel Corporation Inc vs. United Kingdom Limited (Case C-252/07). Ở Nhật Bản, khả năng gây nhầm lẫn vẫn là trọng tâm của xác định phạm vi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như trong vụ kiện Intel Corporation Inc vs. KK IntelGrow. Ở Trung Quốc: dù được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng nhưng thời điểm nào đạt được tình trạng nổi tiếng mới mang tính chất quyết định thắng thua như thể hiện trong vụ Airbus Deutschland GmbH vs. Shenyang Yongfeng Food Co. Xem thêm pháp luật và thực tiễn công nhận và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở bài viết: “Giải quyết tranh chấp liên quan đến Nhãn Hiệu Nổi Tiếng theo pháp luật và thực tiễn ở Mỹ, EU, Trung Quốc và Việt Nam: giống nhau hay khác biệt dù cùng bị ràng buộc bởi Công ước Paris và Hiệp định TRIPs?ở link: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Giai-quyet-tranh-chap-lien-quan-den-Nhan-Hieu-Noi-Tieng-theo-phap-luat--va-thuc-tien-o-My-EU-Trung-Quoc-va-Viet-Nam:-giong-nhau-hay-khac-biet-du-cung-bi-rang-buoc-boi-Cong-uoc-Paris-va-Hiep-dinh-TRIPs-1914

[8] Theo Điều 6bis Công ước Paris và Điều 16.3 Hiệp định TRIPs, nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được biết thị bằng công thức: nhãn hiệu trùng/tương tự + hàng hóa/dịch vụ không trùng/không tương tự + đã đăng ký = bị cấm nếu thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện (a) chỉ dẫn mối liên hệ giữa hàng hóa/dịch vụ với chủ nhãn hiệu đã đăng ký, và (b) lợi ích của chủ nhãn hiệu đã đăng ký có thể bị tổn hại bởi việc sử dụng đó.

[9] Hầu hết các quan điểm đều cho rằng chỉ nên cấp thẩm quyền công nhận hoặc không công nhận nhãn hiệu nổi tiếng cho 2 cơ quan: cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp (Cục SHTT) và tòa án thay vì tất cả cơ quan thực thi SHTT theo điều 200 vì lý do nhãn hiệu nổi tiếng  là vấn đề rất phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức chuyên sâu và lại dễ tranh cãi

[10] Điều 74. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu

2. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

g) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;

 

Bookmark and Share
Relatednews
Khi nào không thể hoặc không nên đăng ký thương hiệu ra nước ngoài theo Hệ thống Madrid?
ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MADRID
Cấm người khác dùng tên người nổi tiếng đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc được không?
Trung Quốc: Tranh tụng bản quyền nhiều nhất thế giới và vai trò đặc biệt của hệ thống Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ
Nhật Bản bỏ thu phí 2 lần đối với nhãn hiệu quốc tế theo Hệ thống Madrid
Cambodia to Strictly Watch the Timely Submission of Affidavit of Use/Affidavit of Non-use for a Registered Trademark
Trung Quốc sẽ tiếp tục sửa Luật nhãn hiệu 2019 với trọng tâm chống “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu”
Căn cứ từ chối tuyệt đối cần tránh khi lựa chọn thương hiệu để nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ở Trung Quốc
Campuchia siết chặt nghĩa vụ nộp bằng chứng sử dụng đối với nhãn hiệu đã đăng ký
Bross & Partners as a Contributor to the Chambers Trademarks and Copyright 2024 Global Practice Guide
Founding Partner Le Quang Vinh continously named in the 2023 A-List by Asia Business Law Journal

Newsletter
Guidelines
Doing business in Vietnam
Intellectual Property in Vietnam
International Registrations
Copyright © Bross & Partners All rights reserved.

         
Cửa thép vân gỗcua thep van go