Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và thực trạng giải quyết
Email: vinh@bross.vn
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ là vô nghĩa nếu quyền đó không thực thi được trên thực tế
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền tài sản được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo vệ. Quyền sở hữu trí tuệ không phải là một quyền mà là một tập hợp gồm nhiều loại quyền khác nhau được xác lập theo các quy tắc khác nhau do pháp luật quy định cho phép chủ thể quyền[1] độc quyền sử dụng và khai thác đối với các đối tượng bảo hộ khác nhau của quyền sở hữu trí tuệ như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới, quyền tác giả, quyền liên quan.
Tương tự như các tài sản khác như vật, tiền và giấy tờ có giá, quyền sở hữu trí tuệ - có ý nghĩa là một loại quyền tài sản - cũng là một loại tài sản được bảo hộ bởi pháp luật, cụ thể là luật pháp trao cho chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ cả 3 quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt[2]. Do đó, thực thi quyền sở hữu trí tuệ chính là việc bảo vệ quyền sở hữu đối với quyền sở hữu trí tuệ bằng cách sử dụng các công cụ hoặc biện pháp khác nhau được Nhà nước công nhận để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền độc quyền khai thác, sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ đó.
Sẽ là vô nghĩa nếu chỉ công nhận sự tồn tại của quyền sở hữu trí tuệ mà không có cơ chế pháp lý giúp chủ thể quyền bảo vệ các quyền đó. Chính vì vậy, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cho rằng tất cả các hệ thống sở hữu trí tuệ cần được củng cố bởi một hệ thống tư pháp mạnh để xử lý các vi phạm dân sự và hình sự. Nếu không có một hệ thống phù hợp cho việc thực thi quyền và cũng như cho phép chống lại việc cấp quyền cho người khác thì một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ chẳng có giá trị gì cả[3].
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và thực trạng giải quyết
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay đang ở mức đáng báo động. Bản báo cáo có tên gọi “Thúc đẩy và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam” được ban hành theo sáng kiến của Phòng thương mại quốc tế ICC (gọi tắt là ICC Bascap) trên cơ sở phối hợp với Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cho thấy 3 khía cạnh đáng lưu ý: (a) tình trạng hàng giả, hàng lậu ở mức báo động góp phần tích cực cho nền kinh tế ngầm (nền kinh tế chưa quan sát) có giá trị hàng chục tỷ đô la, làm cho nhà nước thất thu thuế còn người tiêu dùng thì gánh chịu rủi ro sức khỏe trong đó các mặt hàng giả xuất hiện ở mọi lĩnh vực từ dệt may, mỹ phẩm, dược phẩm, rượu mạnh, thực phẩm và phần mềm; (b) đối tượng xâm phạm ngày càng tinh vi vì chúng sử dụng công nghệ làm giả tinh vi làm vô hiệu hóa khả năng phát hiện, trong đó chú yếu tập trung vào giả các thương hiệu lớn; và (c) xâm phạm quyền SHTT đang gia tăng nhanh và phổ biến trên môi trường internet tập trung vào web lậu, phát tán, phân phối sản phẩm có quyền tác giả hoặc quyền liên quan không phép, bẻ khóa, phát lậu, livestream[4],…
Theo báo cáo đặc biệt 301 của Văn phòng Bộ thương mại Hoa Kỳ (USTR) thì Việt Nam năm thứ 4 liên tiếp vẫn nằm trong danh sách các quốc gia cần theo dõi (Watch List) về sở hữu trí tuệ. Báo cáo đặc biệt 301 là một đánh giá thường niên về tình trạng thực thi và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các quốc gia là đối tác thương mại của Hoa Kỳ. Dựa trên kết quả điều tra và đánh giá, USTR sẽ xếp các quốc gia cần quan tâm về sở hữu trí tuệ theo 2 danh sách: danh sách theo dõi (Watch List) và danh sách ưu tiên theo dõi (Priority Watch List). Theo báo cáo đặc biệt 301 năm 2019, Việt Nam bị cho là không cung cấp biện pháp bảo vệ biên giới một cách thích đáng và hiệu quả chống lại hàng giả mạo và hàng sao chép lậu, không giải quyết thích đáng thách thức mới xuất hiện và tiếp tục tồn tại liên quan tới xâm phạm quyền tác giả bao gồm cả nạn sao chép lậu trên môi trường trực tuyến[5].
Liên quan đến lĩnh vực quyền tác giả, Ông Gary Gan - Giám đốc Chương trình Tuân thủ Khu vực châu Á – Thái Bình Dương thuộc Liên minh phần mềm (BSA) cho biết “Tỷ lệ cài đặt phần mềm không bản quyền của Việt Nam thuộc hàng cao nhất khu vực APAC đạt 78%, tức là 4/5 trường hợp. Để so sánh, nước đạt kết quả tốt nhất ở khu vực APAC là New Zealand với tỷ lệ 18% và nước đứng đầu thế giới là Mỹ với 17%”[6].
Việt Nam đã và đang cho thấy sự nỗ lực nhất định trong việc phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả bằng việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 389 từ năm 2014 mà hay được gọi tắt là Ban chỉ đạo 389 do một Phó Thủ tướng làm trưởng ban. Thông qua việc liên kết và điều phối giữa các lực lượng thực thi pháp luật thuộc nhiều bộ, ngành khác nhau nên Ban chỉ đạo 389 đã đạt được một số thành công bước đầu, chẳng hạn như đã xử lý 223.262 trường hợp chỉ riêng 9 tháng đầu năm 2016 với khoản thu ngân sách 225.563 tỷ đồng với tổng cộng 1.561 vụ án liên quan đến 1.863 đối tượng vi phạm đã bị khởi tố mà hầu hết trong số này liên quan đến sản xuất, buôn bán hàng giả[7].
Tuy nhiên, thực trạng thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam nhìn chung còn nhiều hạn chế. Hầu hết các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiện nay ở Việt Nam đều được xử lý bằng biện pháp hành chính. Theo Tổng Cục Quản lý thị trường – Bộ Công thương pháp luật Việt Nam quy định thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự, hình sự và hành chính nhưng trên thực tế việc thực thi quyền SHTT chưa thực sự hiệu quả vì hầu như chỉ có biện pháp hành chính là được áp dụng chủ yếu. Tuy nhiên, ngay cả biện pháp hành chính được áp dụng cũng tương đối hạn chế do có nhiều lực lượng tham gia như Hải quan, Thanh tra chuyên ngành, Quản lý thị trường và Công an kinh tế nhưng không xác định rõ ràng cơ quan nào là đầu mối[8]
Giải quyết các vụ việc hoặc tranh chấp về sở hữu trí tuệ mang tính phi hình sự tại hệ thống tòa án của Việt Nam rất ít được sử dụng bởi các chủ thể quyền. Tính từ sau thời điểm Luật SHTT có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2006), theo số liệu thống kê của TAND tối cao từ 01/7/2006 cho đến ngày 22/6/2009, toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý được 108 vụ án tranh chấp về quyền SHTT (trong đó chiếm đa số là tranh chấp về quyền tác giả với 90 vụ; tranh chấp về quyền SHCN chiếm 10 vụ; tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm chiếm 5 vụ; tranh chấp về hợp đồng chuyển giao công nghệ chiếm 3 vụ). Nếu chỉ tính riêng đối với Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội thì từ ngày 01/7/2006 đến nay, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội mới chỉ thụ lý giải quyết có 7 vụ án, nhưng thực chất chỉ là 5 vụ án, vì có 2 vụ án phải xét xử xử phúc thẩm lần 2. Số vụ việc còn quá hạn chế này cho thấy, các chủ thể quyền SHTT còn e ngại việc khởi kiện ra Tòa án mà thay vào đó, họ chọn việc xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp hành chính. Thực tế trong giai đoạn này xuất phát từ (i) tính mất cân xứng của luật nội dung về quyền tác giả và quyền SHCN, (ii) những bất cập của pháp luật về tố tụng đối với việc giải quyết các vụ tranh chấp về quyền SHTT, và (iii) sự non kém về năng lực chuyên môn của các cán bộ xét xử, hệ quả là tòa án chưa thực sự trở thành kênh giải quyết thuyết phục, ưa chuộng đối với các tranh chấp về tác quyền[9].
Bất luận những hạn chế nêu trên thì việc giải quyết vụ án về sở hữu trí tuệ tại tòa dân sự hoặc tòa kinh tế cũng đem lại một số lợi ích vật chất đáng kể cho chủ thể quyền, đặc biệt là khoản tiền bồi thường thiệt hại có khuynh hướng ngày càng tăng mà bị đơn buộc phải thanh toán cho nguyên đơn. Thực tiễn cho thấy quan điểm xét xử và quyết định mức bồi thường thiệt hại của các tòa án trong giai đoạn sau năm 2012 có điểm nhấn đáng lưu ý là có tòa án chấp nhận mức đòi bị đơn hoàn trả chi phí hợp lý thuê luật sư ở mức kỷ lục lên tới 630 triệu. Đến năm 2015, có tòa án chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường tổn thất thực tế lên tới trên 2.2 tỷ đồng được nguyên đơn chứng minh tồn tại ở cả 3 dạng: tổn thất về cơ hội kinh doanh, lợi nhuận bất hợp pháp, và chi phí thuê luật sư nhưng sau đó bị tòa cấp phúc thẩm bác bỏ toàn bộ phần lợi nhuận bất hợp pháp đòi bồi thường trên 1.1 tỷ đồng và chỉ chấp nhận một phần nhỏ tổn thất về cơ hội kinh doanh là 22 triệu so với con số đòi bồi thường trên 430 triệu đồng[10].
Đối với các vụ việc có dấu hiệu tội phạm, chẳng hạn như xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, theo báo cáo của Tổng cục Cảnh sát – Bộ Công an tháng 9/2007 cho giai đoạn từ 2002-2007 cả nước chỉ có 1092 vụ liên quan đến hành giả nhưng chỉ có 162 vụ khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên trong số các vụ án hình sự này, hầu như cơ quan tiến hành tố tụng chỉ khởi tố về tội danh sản xuất, buôn bán hàng giả thay vì tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc xâm phạm quyền tác giả, cụ thể hơn tính đến tháng 9/2008 chỉ có vài vụ truy tố hình sự theo điều 171 Bộ luật hình sự năm 1999 về xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp[11]
Tuy vậy, gần đây có điểm sáng về lập pháp của Việt Nam là lần đầu tiên trong lịch sử khoa học pháp lý về hình sự, Việt Nam đã chấp nhận cho vận hành một chế định pháp lý hoàn toàn mới mẻ là chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại mà đã được Quốc Hội biểu quyết thông qua bằng Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14. Người ta cho rằng việc mở rộng khả năng truy cứu trách nhiệm hình với pháp nhân thương mại có thể được xem là một nỗ lực đáng kể của Việt Nam nhằm trừng trị thích đáng tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Về thực tiễn, lần đầu tiên pháp nhân thương mại bị khởi tố và điều tra về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi có liên quan tới vụ bắt giữ 42.405 thanh nhôm định hình (khoảng 170 tấn) ở Khu công nghiệp Trung Hà, Tam Nông, tỉnh Phú Thọ mang nhãn hiệu giả mạo “Nhôm Việt Pháp Shal”, và sau đó vụ án này đã được xét xử sơ thẩm bởi Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ hồi tháng 01/2020[12].
Bross & Partners có kinh nghiệm hỗ trợ thực thi, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính, dân sự, hình sự và kiểm soát biên giới tại các cửa khẩu. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ: vinh@bross.vn; điện thoại 0903 287 057, 84-4-3555 3466; Wechat: wxid_56evtn82p2vf22; Skype: vinh.bross
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam và nước ngoài liên quan đến bản quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu/thương hiệu và tên miền internet.
[1] Khoản 6 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ”.
[2] Theo Điều 158 Bộ luật dân sự năm 2015, quyền sở hữu bao gồm 3 quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Do tính chất vô hình của quyền tài sản – quyền sở hữu trí tuệ - nên Luật SHTT, với tư cách là đạo luật chuyên ngành, làm rõ hơn về 3 quyền năng đã nêu, cụ thể chẳng hạn như Điều 123 quy định về quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp:
1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây:
a) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 124 và Chương X của Luật này;
b) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 125 của Luật này;
c) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Chương X của Luật này.
[3] Xem WIPO Intellectual Property Handbook: Policy, Law and Use, Chapter 4: Enforcement of Intellecual Property Rights, trang 207
[7] Bài phát biểu của Đại diện Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia tại Hội nghị “Nâng cao hiệu quả phối hợp của các lực lượng thực thi trong công tác chống hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” tại Hà Nội, Việt Nam ngày 20/10/2016 được báo cáo ICC Bascap trích dẫn tại footnote 75
[11] Xem thêm Pháp luật và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, PGS. TS. Trần Văn Nam, Khoa Luật, Đại học kinh tế quốc dân.