Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam
Email to: vinh@bross.vn
Chống cạnh tranh không lành mạnh là một công cụ pháp lý độc lập
Quyền sở hữu trí tuệ không phải là một quyền mà là một tập hợp gồm nhiều loại quyền khác nhau được xác lập theo các quy tắc khác nhau do pháp luật quy định cho phép chủ thể quyền độc quyền sử dụng và khai thác đối với ý tưởng, sản phẩm sáng tạo trí tuệ bao gồm cả các chỉ dẫn thương mại như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới, quyền tác giả, quyền liên quan[1]
Tuy nhiên, trường hợp các ý tưởng, sản phẩm sáng tạo trí tuệ bao gồm cả các chỉ dẫn thương mại nêu trên vì một lý do nào đó không được bảo hộ mà bị các chủ thể khác xâm phạm thì trong một số trường hợp nhất định pháp luật vẫn cho họ có cơ hội cuối cùng để ngăn chặn việc xâm hại đó. Ví dụ như một thiết kế bao bì sản phẩm hoặc một câu slogan được sử dụng lâu dài trong thương mại được người tiêu dùng biết tới uy tín của sản phẩm nhưng doanh nghiệp sở hữu sản phẩm đó lại không có văn bằng bảo hộ dưới dạng kiểu dáng công nghiệp hoặc nhãn hiệu thì doanh nghiệp này có thể áp dụng biện pháp pháp lý người ta gọi là chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh[2]
Nói cách khác, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một biện pháp pháp lý độc lập với biện pháp lý chống hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới, quyền tác giả, quyền liên quan mà đã được Nhà nước cấp văn bằng bảo hộ hoặc công nhận[3]
Bốn dạng hành vi bị xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nghĩa vụ chứng minh
Luật SHTT Việt Nam coi 4 dạng hành vi sau là cạnh tranh không lành mạnh:
Dạng 1: Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
Dạng 2: Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
Dạng 3: Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng[4];
Dạng 4: Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng[5].
Chủ thể nào đòi thực hiện quyền bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh thì chủ thể đó có nghĩa vụ chứng minh rằng quyền của mình bị xâm phạm theo điều 130 Luật SHTT. Trong số 4 dạng hành vi trên thì phổ biến hơn cả là dạng 1 & 2 đều liên quan đến hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn.
Chỉ dẫn thương mại thuộc điều 130 Luật SHTT có thể gồm các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp chưa đăng ký như nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý; hoặc có thể gồm nhãn hàng hóa, khẩu hiệu kinh doanh (slogan), biểu tượng kinh doanh, kiểu dáng bao bì của hàng hóa
Để có thể thắng trong một vụ yêu cầu bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến dạng 1 & 2 nêu trên, chủ thể nộp yêu cầu thông thương phải chứng minh mình thỏa mãn 4 điều kiện sau:
-
Chỉ dẫn thương mại do chủ thể đó đã được sử dụng trước trong thương mại so với chỉ dẫn thương mại do đối thủ sử dụng
-
Chỉ dẫn thương mại do chủ thể đó đã được sử dụng rộng rãi, ổn định gắn liền với hoạt động kinh doanh hợp pháp và được nhiều người tiêu dùng biết đến uy tín của chủ thể đó
-
Chỉ dẫn thương mại được sử dụng sau bởi đối thủ phải có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ, xuất xứ địa lý, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ
-
Đối thủ bị yêu cầu xử lý tiếp tục sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn thông qua tên miền đó mặc dù đã được chủ sở hữu nhãn hiệu, tên thương mại hoặc chỉ dẫn địa lý thông báo yêu cầu chấm dứt sử dụng.
Bross & Partners có kinh nghiệm liên quan đến bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả kinh nghiệm khởi kiện ở Trung tâm trọng tài WIPO buộc chuyển nhượng thành công tên miền Honghagas.com trong Case No. D2010-0374. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu cụ thể cần được tư vấn, vui lòng liên hệ vinh@bross.vn hoặc điện thoại 0903 287 057.
Bross & Partners, một công ty luật sở hữu trí tuệ được thành lập năm 2008, thường xuyên lọt vào bảng xếp hạng các công ty luật sở hữu trí tuệ hàng đầu của Việt Nam do các tổ chức đánh giá luật sư có uy tín toàn cầu công bố hàng năm như Managing Intellectual Property (MIP), World Trademark Review (WTR1000), Legal 500 Asia Pacific, AsiaLaw Profiles, Asia Leading Lawyers, Asia IP và Asian Legal Business (ALB). Với nhiều năm kinh nghiệm nổi bật và năng lực chuyên môn sâu khác biệt, Bross & Partners có thể giúp khách hàng bảo vệ hoặc tự vệ một cách hiệu quả trong các tranh chấp sở hữu trí tuệ phức tạp ở Việt Nam (bao gồm cả tranh tụng) liên quan đến nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và tên miền internet.
[2] Điều 10bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà Việt Nam là thành viên từ 8/3/1949 quy định rằng bất kỳ hoạt động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, chẳng hạn như (a) hoạt động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh tranh; (b) hoạt động gây hiểu sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh tranh; hoặc (c) sử dụng chỉ dẫn trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất của hàng hoá.